Đất phương Nam mang một nét đặc thù của tinh thần Việt Nam: biến những người tứ chiếng thành người Việt Nam; cũng giống như tinh thần Việt Nam ( dĩ nhiên vào thời cộng sản chưa làm băng hoại Đạo Việt ): Việt Nam hóa những nét văn hóa du nhập.
Sách nên đọc…
“Chữ Quốc Ngữ” hay chữ theo mẫu tự Latin cũng không ngoài tinh thần đó!
— CHỮ QUỐC NGỮ CHÍNH LÀ NỐI TIẾP “TINH THẦN HÀN THUYÊN” CỦA DÂN ĐẠI VIỆT!
Nỗi Khát Khao Độc Lập Văn Hóa với giống người phương Bắc!
Các giáo sỹ Tây Phương đã cho chúng ta chữ Quốc Ngữ Latin, nhưng chính chúng ta đã chọn chữ Quốc Ngữ — vì đơn giản chữ Quốc Ngữ là một phương tiện tinh thần khẳng định tính độc lập văn hóa của chúng ta.
Luận án của tôi ( nộp Tháng Hai, 1997 ) về áp dụng Natural Language Processing vào tiếng Việt, chữ Quốc Ngữ. Trang 33: sơ lược về lịch sử phát triển của chữ Quốc Ngữ.
Luận án của tôi ( nộp Tháng Hai, 1997 ) về áp dụng Natural Language Processing vào tiếng Việt, chữ Quốc Ngữ. Trang 34: sơ lược về lịch sử phát triển của chữ Quốc Ngữ.
*
* *
Cụ Mặc Cửu đến “tiểu quốc” Hà Tiên, mang vùng đất này về cho Việt Nam… con trai ông Mạc Thiên Tích, mẹ là người Việt, trọng văn Nôm, đã lập Chiêu Anh Các cùng 36 thi nhân văn sỹ xướng họa để lại nhiều bài thơ hay.
Đất Hà Tiên, một người Minh Hương, giáo sư Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, Đông Hồ Lâm Tấn Phát, từ thuở 20 tuổi, đã ra sức quảng bá Quốc Chữ cho trẻ em trong vùng, dù thực dân đàn áp và cuối cùng đã phải đóng cửa trường.
Đông Hồ Lâm Tấn Phát và phu nhân nữ sỹ Mộng Tuyết.
Dù ông cứng đầu, đã nhiều lần bất chấp đòi hỏi ngang ngược của thực dân Pháp, nhưng cũng chưa bao giờ bị đối xử thô bạo hay tù tội!
Chữ viết của chúng ta ngày hôm nay, dù còn nhiều bất cập, và ngôn ngữ của chúng ta không phải là một ngôn ngữ xuất sắc so với các ngôn ngữ khác của thế giới, nhưng Việt Ngữ và chữ Quốc Ngữ chính là:
— CÁI TINH THẦN BẤT KHUẤT CƯỜNG LIỆT CỦA DÒNG LẠC VIỆT, QUYẾT KHÔNG BỊ ĐỒNG HÓA!
Dòng lịch sử thăng trầm gần 400 ( bốn trăm ) năm của chữ Quốc Ngữ dù non trẻ, nhưng trĩu nặng những suy tư đối với tiền đồ dân tộc của các bậc trí thức của những thế hệ trước.
Trách nhiệm của thế hệ hiện tại là phải gìn giữ sự tồn tại của chữ Quốc Ngữ, của các thế hệ tương lai là Hoàn Thiện Chữ Quốc Ngữ: thiễn nghĩ chúng ta có đầy đủ sách vỡ của tiền nhân để lại đủ giúp thực hiện công việc này.
Duyên gặp gỡ tương tri thuở nọ, Khúc nam huân ngọn gió khéo đưa, Cung đàn dìu dặt tiếng tơ, Hàn Thuyên Đại Việt hồn xưa bàng hoàng
— Xuân Phong Ngâm, Đông Hồ Lâm Tấn Phát
Hồn Đại Việt, giọng Hàn Thuyên, Nền móng văn chương cổ điển, Đặt đây viên đá đầu tiên, Xây dựng tương lai còn hẹn
— Tiếng Việt Huy Hoàng, 1967, Đông Hồ Lâm Tấn Phát
Những kế hoặch vĩ đại hòng cố phát triển những vùng không thể đóng góp nhiều cho nền kinh tế đã khiến cho nhiều đế quốc tiêu tùng trong quá khứ.
Theo một vài quan điểm của những người có thẩm quyền ( nghĩa là có hiểu biết rộng ) thì vấn đề cốt lõi vẫn là phương pháp đầu tư. Đại cường là những quốc gia biết sử dụng thành quả kinh tế để củng cố sức mạnh quân sự. Khi mà những quốc gia này gắng sức củng cố quân sự, những kế hoặch đầu tư phát triển kinh tế sẽ thiếu vốn và quốc gia này từ từ sẽ tiêu tùng.
Tàu cộng đang ở trong tình trạng này, sự cường thịnh kinh tế đã dẫn đến thái động hung hăng quân sự và cố gắng trút tiền vào những quốc gia láng giềng mang tính chiến lược.
Cộng Hòa Nhân Dân
Lực lượng lao động của Tàu+ được dự đoán là sẽ giảm trong năm 2018 lần đầu tiên trong năm thập niên.
Cũng giống như đế quốc Sô Viết trong thập niên 1970, sự đột phá công ăn việc làm ở Tàu+ đã tàn, và họ đang dấy lên niềm hy vọng đổ tiền vào đầu tư sẽ giữ được phép mầu cũ và củng cố vị thế của họ ở những vùng đất mới. Sự thành công hay thất bại của các dự án trong kế hoặch “Nhất Đới, Nhất Lộ” — và số lượng tiền tệ khổng lổ được đầu tư trong nước — sẽ có tính cách quyết định là quốc này đã đạt đươc giấc mơ phồn thịnh sẽ gặp những trở lực tương tự đã khiến cho đế quốc Liên Bang Sô Viết tan tành.
Một băng khoăng chung về kế hoặch “Nhất Đới, Nhất Lộ” — những dự án hạ tầng không điểm dừng trị giá khoảng một ngàn năm trăm tỷ Mỹ kim kéo dài trong thập niên tới ở Đông Nam Á, Nam Á và Trung Á — là các quốc gia trong các vùng lãnh thổ nói trên sẽ bị biến thành những con nợ tương lai của Bắc Kinh.
Một Tỷ Ở Nơi Này, Một Tỷ Ở Nơi Khác
Vốn đầu tư vào các dự án ở các quốc gia và vùng lãnh thổ trong “Nhất Đới, Nhất Lộ”. Đơn vị là tỷ Mỹ kim.
Những dự án thất bại, điển hình như cảng Hambantota ở Tích Lan là một phương pháp để Tàu+ mở ảnh hưởng chiến lược rộng ra thế giới. [1] Nhưng nợ nần đầu tư cũng khiến cho chủ nợ lẫn con nợ gặp khó khăn. Sự nguy hiểm cho Tập Xì Ping là sự cạn kiện vốn liếng sẽ khiến cho sự phát triển của Tàu+ cũng là sức mạnh của Tàu+ bị chững lại.
Thử nhìn lại một vài dự án đang trong kế hoặch. Chúng ta nghĩ một tỷ sáu trăm triệu Mỹ kim vào cảng Hambantota là nhiều? Vậy hãy xem lại Kyaukpyu ở Miến Điện, công ty Citic Group Corp. chủ đầu tư chín chấm sáu tỷ Mỹ kim vào một cảng biển sâu và một đặc khu công nghiệp nối liền với đường dẫn dầu và ga của công ty Dầu Khí Quốc Gia Tàu+.
Chúng ta nhìn ra một logic chiến lược trong các dự án này. Tàu+ mở thương lộ sang Tây Phương khách hàng của họ và thương lộ sang các quốc gia Trung Á mà Tàu+ cần dầu hỏa phải đi qua vùng biển huyết mạch eo biển Singapore và Malacca, nỗi lo lắng thường xuyên của các nhà chiến lược quân sự của Tàu+. Thiết lập một đường xe lửa và đường dẫn dầu đến Ấn Độ Dương sẽ là một con đường thay thế.
Ống Dẫn Ga, Ống Dẫn Dầu
Các đường dẫn ga thường phải hoạt động ít nhất là một nữa công suất để huề vốn. Đường dẫn ga Tàu cộng-Miến Điện chỉ đến mức một phần ba từ khi đi vào hoạt động năm 2013.
Trên phương diện kinh tế, suy nghĩ này thất bại. Dường dẫn ga Kyaukpyu chưa hoạt động đến 1/3 công suất khi khởi động vào 2013, đường dẫn dầu song song im lìm hàng năm trời trước khi được hoạt động lần đầu tiên vào năm rồi — lợi nhuận chẳng là bao so với hai chấm năm tỷ Mỹ kim đầu tư xây dựng. Ở vùng Kunming nhà máy lọc dầu có công suất 260,000 thùng dầu mỗi ngày, tương đương với nhà máy lọc dầu lớn nhất Anh Cát Lợi, cũng hoạt động hết công suất nếu không có dầu thô đưa đến Kyaukpyu.
Những dự án đường xe lửa chằng chịt mạng nhện trong vùng Trung Á là tâm điểm của kế hoặch “Nhất Đới, Nhất Lộ”. Như chúng tôi đã luận trước đây, với kế hoặch này, họ đã không hiểu biết gì về lịch sử cũng như những căn bản kinh tế của thương mại đông-tây, thương lộ này luôn phụ thuộc vào hàng hải trung chuyển trong vùng Đông Nam Á, Ấn Độ và Bán Đảo Ả Rập hơn là phụ thuộc vào Con Đường Tơ Lụa xuyên các thảo nguyên Âu Á.
Về Hướng Tây, Chàng Tuổi Trẻ
Các dự án “Nhất Đới, Nhất Lộ” ở đại lục Châu Á trong Nam Dương, Phi Luật Tân và Tích Lan chỉ là một phần rất nhỏ của tổng đầu tư.
Những bất lợi của bộ vận ngày nay được gia tăng với những con tàu dương vận có công suất hàng tỷ Mỹ kim hàng hóa mỗi chuyến, và những đường sắt khoảng cách khác nhau trong Á Châu khiến cho bộ vận càng thêm đắc đỏ và tốn thời gian.
Giá trị hàng hóa vận chuyển giữa Châu Âu và Yiwu, một trung tâm đường sắt gần Thượng Hải, là khoảng 330 triệu Mỹ kim trong bốn tháng đầu của 2018, theo công ty Đường Sắt Quốc Gia Tàu+. Chỉ bằng 1/3 của những con tàu dương vận khổng lồ, và có khoảng vài trăm con tàu hạng nhỏ hoạt động. Bốn thương cảng hàng đầu của Tàu+ cộng có công suất 330 triệu Mỹ kim mỗi ba tiếng đồng hồ.
Phải Xuống Biển
Tuyệt đại đa số thương mại giữa Tàu+ và Châu Âu là bằng không vận hoặc hải vận, bộ vận không kham nổi.
Chúng ta cần phải suy gẫm lại vấn đề xài tiền bậy bạ trong bối cảnh đế quốc Sô Viết bị suy yếu. Vào những thập niên giữa của thế kỷ 20, Mạc Tư Khoa cũng hiện tượng phép lại kinh tế như Tàu+ đang có bây giờ và điều đó đã khiến Tây Phương hoảng sợ là họ sẽ bị Sô Viết đè bẹp. Vào thập niên 1950s, kinh tế Sô Viết phát triển hùng hơn bất cứ quốc gia nào ngoại trừ Phù Tang.
Có rất nhiều lý do tại sao sự phát triển tột bậc lại tan tành vào thập niên 1970s, như tính giáo điều của kinh tế chỉ đạo, lực lượng lao động không giảm thiểu, và số lượng tiền tệ khổng lồ đầu tư vào quân sự trong thời Chiến Tranh Lạnh. Tuy nhiên, không thể tách rời sự lụi tàn này ra khỏi kế hoặch tương tự như “Nhất Đới, Nhất Lộ”, đầu tư phát triển Tây Bá Lợi Á.
Từ thập niên 1960s, Tây Bá Lợi Á nuốt chửng khoảng 1/3 dụng cụ xây cất hạng nặng của đế quốc Sô Viết dù chỉ là vùng đất có một phần rất nhỏ tổng dân số, và Mạc Tư Khoa đã đổ tiền để xây dựng những mỏ ga, mỏ than, những nhà máy nhôm, và một triển khai thêm đường sắt Xuyên-Tây Bá Lợi Á hàng trăm cây số về hướng Bắc.
Các Khoảng Thời Gian Khó Khăn
Giảm sút sản lượng dầu, than và thép trong thập niên 1970 và 1980 đã đình trệ phát triển của toàn bộ nên kinh tế của đế quốc Sô Viết.
“Phát triển khai thác tài nguyên thiên nhiên ở Tây Bá Lợi Á đã ngốn một khoảng tiền đầu tư khổng lồ,” nhà kinh tế Robert C. Allen đã viết, không đầu tư vào những dự án lợi nhuận ở hướng tây của vùng sơn cước Urals đã từ từ làm đình trệ sản xuất của nền kinh tế đế quốc này. “Sự ‘giàu có’ tài nguyên thiên nhiên của đế quốc Sô Viết đã trở thành một lời nguyền,” ông viết. “Khai thác tài nguyên đã ngốn đa số ngân quỹ đầu tư nhưng không tăng Tổng Sản Lượng Quốc Gia là bao.”
Diễn tiến tương tự có thể xảy ra với Tàu+ không? Đế quốc Sô Viết đã phải đổ tiền vào các vùng tiền tuyến chiến lược phía đông, Bắc Kinh sợ hãi chủ nghĩa ly khai biên giới phía tây nên đã đổ tiền cho các dự án trong vùng này ở những năm gần đây, đây là một tình trạng bất an tiềm ẩn mà dự án “Nhất Đới, Nhất Lộ” chỉ là một phần rất nhỏ của trong tình trạng bất an này.
Đầu Tư Giảm Sút
Vốn đầu tư vào những vùng kinh tế đầy lợi nhuận ở các vùng phía đông đang trên đà giảm sút trong thập niên qua
Lãnh thổ phía tây của Tàu+ cộng lấy hết 19.5 phần trăm tổng vốn đầu tư quốc gia năm 2016, trong khi đó những thành phố kinh tế phồn thịnh Cấp Một và Quảng Đông chỉ được 15.4 phần trăm. Những vùng kém phát triển vùng miền trung, miền bắc và miền tây của Tàu+ đã nuốt đại đa số vốn đầu tư cố định từ năm 2007, theo thống kê nhà nước.
Và sự kiện đó cũng trùng hợp sự kết thúc chu kỳ tăng trưởng phép mầu. Nhân công tăng nhanh ở sản lượng kể từ năm 2008, có nghĩa là nền kinh tế càng ngày càng giảm tính cạnh tranh, theo bản báo cáo và Tháng Bảy 2018 của nhóm nghiên cứu Conference Board. Khoảng 90 phần trăm những thuận lợi của Tàu+ so với Mỹ trong năm 2016 chỉ là kết quả của tỷ lệ hối suất, kinh tế gia Siqi Zhou báo cáo.
Nỗi sợ hãi của Tàu+ về sự bất an ở phía tây có nhiều hậu quả tai hại. Nếu so sánh sự kiện hàng trăm ngàn người Duy Ngô Nhĩ bị đưa vào các trại tập trung và hơn hàng triệu người lúc nào cũng bị giám sát ở vùng Tân Cương, thì sự lãng phí của tiền đầu tư và những dự án khổng lồ chỉ là một nỗi lo lắng không đáng kể.
Nhưng thật sự không phải vậy. Ở quốc gia này những con số thống kê kinh tế không đáng tin cậy và số người tìm được việc làm đang giảm thiểu ở mức tối đa, tác hại ghê gớm của những đầu tư thất bại phá tan nền móng của tăng trưởng kinh tế.
Sự cường thịnh của Tàu+ trong thế kỷ này là kết quả của sự tham gia vào thương mại thế giới mà những vùng ven biển đóng vai trò chủ chốt. Ở những vùng hoang vắng của đại lục, Tàu+ đã gieo mầm móng đỗ vỡ.
—
Chú thích của tác giả David Fickling:
[1]. Tàu+ cộng được quyền mướn trong vòng 99 năm để trừ khoản nợ chính phủ Tích Lan mượn từ nhà thầu Tàu, China Merchants Group.
Được biết “Việt Sử Xứ Đàng Trong” của sử gia Phan Khoang của cái thứ gọi là “Nhà Xuất Bản Văn Học” in lại vào năm 2001…
Tôi nhớ lại hai chuyện:
1. Em trai tôi cưới vợ Bắc Kỳ hai nút. ( Để công bằng thì cô em dâu tôi cũng có một người bác ruột là sỹ quan VNCH. ) Một người bà con Bắc Kỳ của cô em dâu ở ngoài Hà Nội nhờ em trai tôi tìm bản “Việt Nam Sử Lược” của cụ Lệ Thần Trần Trọng Kim được in lại ở Mỹ!
— Ông bảo: chúng nó có in lại, sao ông đọc không giống bản ngày xưa thân phụ của ông có. Bị chúng nó đốt trong “chính sách” “bài trừ văn hóa đồi trụy”!
— Chúng nó cũng xuất bản “Hồi Ký Nguyễn Hiến Lê” sáu ( 6 ) lần!
Chẳng lần nào giống bản của Văn Nghệ xuất bản ở California, 1983 — bản này tôi cũng có.
Vị tác giả này bảo: chúng nó cắt xén, và mọi rợ đê tiện hơn: chúng viết lại vài đoạn!
Chỉ có những con xà niên của rợ đỏ, thí dụ thằng Phùng Xuân Nhạ, mới có thể hành xử mọi rợ đê tiện rừng rú kiểu đó!
“Viết Sử Xứ Đàng Trong”, xuất bản thời Việt Nam Cộng Hòa, Xuân Thu, Hoa Kỳ in lại.
*
* *
Đọc “Việt Sử Xứ Đàng Trong” chúng ta sẽ thấy sự bạo tàn của Tổ Tiên người Việt đối với các dân tộc phương Nam.
Đất phương Nam, với những dân tộc, có những nền văn minh rực rỡ có phần hơn dân Lạc Việt, yếu quân sự, hoàng thân quốc thích đánh lẫn nhau, đã tạo cơ hội cho người Việt thôn tính đất đai của họ.
Thiển nghĩ với cái lịch sử đẫm máu đó, chúng ta đừng nên xiểng dương cái tinh thần “Nam tiến”!
— “Nam tiến” chỉ nên xem đơn thuần là một thuật ngữ lịch sử nhiều đau thương.
*
* *
Một điểm đáng khá thú vị trong “Việt Sử Xứ Đàng Trong“: các nhà truyền đạo Tây Phương, vì muốn chứng tỏ kiến thức của mình, ngõ hầu được các Chúa Nguyễn quý tài, họ đã giải thích thiên văn, toán học cho các Chúa và các quan, tướng. Hậu quả hoàn toàn ngược lại:
— Các Chúa kinh sợ kiến thức của họ! Vì các Chúa đã hiểu thiên văn theo nghĩa âm u, huyền bí!
*
* *
Đất Hà Tiên, Chúa Nguyễn tự nhiên có được.
Mặc Cửu, người Quảng Đông, là một người đa tài, mưu lược. Từng làm quan ở Chân Lạp, nhưng thấy nội trị quốc gia này quá tệ. Ông bỏ đi. Là một hải thương giàu có, ông đến vùng đất bây giờ là Hà Tiên, lập thủ phủ, buôn bán, bài bạc thịnh vượng!
Tiêm La lâm le xâm lấn. Mưu sỹ của ông khuyên về với Chúa Nguyễn. Năm Mậu Tý ( 1708 ) ông dâng biểu xưng thần lên Chúa Hiển Tông:
— “…thấy Mạc Cửu tướng mạo khôi liệt, tiến thoái cung kính, cẩn thận, nên bằng lòng cho làm thuộc quốc, trao cho chức Tổng binh và ấn thụ để trấn giữ đất Hà Tiên.”
Con trai ông Mạc Thiên Tích, tài nghệ có phần hơn cha.
Văn võ song toàn. Ông lập hội thơ ( Nhị Thập Bát Tú? ) cùng các quan Việt Nam, họa xướng rất tâm đắc. Truyền lại nhiều bài thơ hay.
Mạc Thiên Tích chí lớn muốn làm vua. Nhưng ông không đánh Chúa Nguyễn.
Mang quân sang xâm lăng Thái Lan, hòng chiếm đất này! Ông thất trận! Bị bắt.
Thời Việt Nam Cộng Hòa, ở Hà Tiên, vẫn còn đền thờ của hai vị Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích.
Các nhân sỹ, tướng quân của Tàu mang chí phản Thanh phục Minh chạy loạn và tỵ nạn ở Việt Nam, Mạc Cửu có lẽ là vị nhân sỹ lãng mạng nhất.
( Hình như thân mẫu của Mạc Thiên Tích là người Việt. )
Tư tưởng dẫn đến thiết chế chính trị và xã hội là một cái bánh vẽ / vẻ ( pie-in-the-sky ) tuyệt đẹp trên trời.
Không có cái sinh hoạt tư tưởng này thì những nhà làm công việc suy tư ( triết gia ) chắc sẽ bị diệt chủng.
Suy nghĩ, tư tưởng của các vị ấy chỉ có giá trị khi nó được áp dụng và mang lại lợi tích thực tiễn cho người dân: công bằng, bác ái, cơm no, áo ấm, an sinh xã hội, an sinh y tế được đầy đủ.
— Bằng không thì những suy nghĩ, tư tưởng ấy chỉ là những đám mây phù phiếm rồi cũng sẽ bay mất, chẳng để lại một dấu tích gì, dù chỉ là một chú thích khiêm tốn trong lịch sử.
*
* *
Nhất thời người Việt Nam quốc nội cần phải được sống đàng hoàng: công bằng, bác ái, cơm no, áo ấm, an sinh xã hội, an sinh y tế được đầy đủ.
Cái gọi là “+ sản” ở Việt Nam phải sụp đổ, bằng cách này hay cách khác!
Mục tiêu ngắn hạn là dân sinh: công bằng, bác ái, cơm no, áo ấm, an sinh xã hội, an sinh y tế được đầy đủ.
Bởi vì:
— Dân vi quý, xã tắc vi thứ, quân vi khinh.
“Quân” là thượng tầng cơ sở: là tư tưởng quản lý xã hội, là luật pháp, hành pháp v.v…
Mục tiêu ngắn hạn là giải quyết những bất công trước mắt một cách thỏa đáng cho dân chúng.
— Dù phải mượn nợ để giải quyết những bất công này chúng ta cũng phải làm!
Lòng dân đã an chúng ta mới có thể bàn đến mục tiêu trung hạn hay dài hạn, mới có thể từ từ chọn cho chúng ta một Hệ Tư Tưởng khả dĩ mang Tính Vệ Quốc lâu dài được!
— Nước lật thuyền! Dân lật ngụy quyền: LÒNG DÂN PHẢI AN!
Thiển nghĩ đó không phải là Hệ Tư Tưởng của Tổ Tiên truyền lại?