Phần 1: Giới thiệu sách: “THẤT BẠI VĨ ĐẠI – Sự Ra Đời Và Cái Chết Của Chủ Nghĩa Cộng Sản Trong Thế Kỷ XX” của Zbigniew Brzeziński. Tác Giả: Từ Liên.

Sự thống trị của chủ nghĩa cộng sản trong phần lớn lịch sử của thế kỷ XX có gốc rễ từ việc nó đã bắt đầu đề cao một quan điểm mà bị xem là “một sự đơn giản hóa cao độ” tất cả những hiện tượng, đời sống xã hội của con người.

Bản tiếng Anh: “THE GRAND FAILURE: The Birth and Death of Communism in the Twentieth Century”, New York: Charles Scribner’s Sons, 1989; 278 pages.

Các độc giả Việt Nam, chắc cũng có những người đã từng biết tới tác giả Zbigniew Brzeziński ( 1928 – 2017 ), nhà ngoại giao và nhà khoa học chính trị người Mỹ gốc Ba Lan, qua tác phẩm “Bàn Cờ Lớn – Nền Chính Trị Của Các Siêu Cường” [ The Grand Chessboard, American Primacy and Its Geostrategic Imperatives ], được dịch và xuất bản lần đầu ở Việt Nam vào khoảng đầu những năm 2000, và được tái bản lần thứ hai vào năm 2020. Tuy nhiên, có một cuốn sách khác cũng nổi tiếng không kém của tác giả Zbigniew Brzeziński, được giới thiệu lần đầu ở Hoa Kỳ vào năm 1989, trước cuốn “Bàn Cờ Lớn” gần một chục năm, mà hầu như đã chưa bao giờ được dịch và giới thiệu rộng rãi tới công chúng ở Việt Nam, do những lý do kiểm duyệt nghặt nghèo của chính quyền cộng sản. Tác phẩm “SỰ THẤT BẠI VĨ ĐẠI – Sự Ra Đời Và Cái Chết Của Chủ Nghĩa Cộng Sản Trong Thế Kỷ XX“, trình bày những nghiên cứu và quan điểm của tác giả, về những biểu hiện đã bộc lộ rõ ràng, khó có thể che đậy, ở những quốc gia theo hệ thống xã hội chủ nghĩa, những quốc gia, mà trong đó, có chính quê hương Ba Lan của ông, đang phải vận lộn với những khó khăn bủa vây từ khắp mọi hướng, từ kinh tế, xã hội, giáo dục, tới đối nội và đối ngoại.

Sự tích tụ của những khó khăn này đã tạo ra cái mà tác giả Brzeziński gọi là “cuộc khủng hoảng cuối cùng” của chủ nghĩa cộng sản. Cuốn sách đã mô tả và phân tích sự suy sụp dần dần, và cuối cùng là sự khủng hoảng toàn diện của chủ nghĩa cộng sản về cả hai mặt: Hệ thống lý luận và thực tiễn triển khai. Tác giả đã đi đến kết luận rằng, vào thế kỷ tiếp theo [ Từ năm 2000 ], sự suy tàn mang tính lịch sử của chủ nghĩa cộng sản là không thể đảo ngược được, và điều này sẽ làm cho tính thực tế và hệ thống lý thuyết giáo điều của nó sẽ không còn phù hợp và không còn có thể được chấp nhận một cách rộng rãi với những điều kiện thực tại của con người.

Ở những nơi mà ngày nay người ta nhìn thấy thứ chủ nghĩa này vẫn còn có thể thể bám trụ lại được, thì thực chất là chính quyền ở đó đã vứt bỏ hầu hết những gì được coi là bản chất nội tại của lý thuyết này [ chẳng hạn như những khẩu hiệu “Giai cấp công nhân – nông dân đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ nhất của xã hội“, “liên minh công-nông là liên minh đóng vai trò cách mạng trong việc xây dựng và bảo vệ nhà nước“, “giai cấp vô sản và quá trình vô sản hóa toàn dân chính là những điều kiện đảm bảo cho một xã hội tự do và bình đẳng“…, hoặc là những lời hứa “nhà nước của dân, do dân, vì dân“, hoặc là “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu“, “công bằng, bình đẳng chỉ có thể nhờ vào quản lý tập thể“, hay là, nỗ lực xóa sổ chủ nghĩa tư bản hoàn toàn, thay bằng chế độ sở hữu toàn dân, vv ],… dù cho nó có thể giữ lại một vài sự thể hiện ở bề ngoài, mà giờ chỉ còn là tên gọi và những khẩu hiện sáo rỗng.

Theo tác giả của cuốn sách này, bước qua thế kỷ mới [ thế kỷ XXI ], chủ nghĩa cộng sản sẽ chỉ còn được nhớ lại như một sự lầm lạc quái đản và tệ hại nhất về chính trị và trí tuệ của thế kỷ XX.

Lập luận của cuốn sách được phát triển trong sáu phần chính.

Trong phần I, tác giả chứng minh những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tấn bi kịch lịch sử của chủ nghĩa cộng sản, đến chủ yếu từ sự thất bại về mặt chính trị và hệ thống kinh tế – xã hội của Liên Bang Xô Viết [ The Grand Failure ].

Phần II đi sâu vào phân tích những dự tính của Liên Xô nhằm cải cách và tăng thêm sức sống cho hệ thống đó, nhưng kết quả lại chỉ làm tăng thêm tình trạng không ổn định và khích động những xung đột chính trị [ The Soviet Disunion ].

Phần III tác giả xem xét những hậu quả của sự áp đặt chủ nghĩa cộng sản đối với các nước Đông Âu và nhấn mạnh phong trào tự giải phóng của xã hội Ba Lan, đã khởi đầu cho một quá trình bác bỏ quyết liệt hệ thống áp đặt đó [ Organic Objection ].

Phần IV tác giả dành riêng để xem xét về kinh nghiệm của Trung Quốc và kết luận là Trung Quốc có những cơ may kéo dài sự áp đặt của mình, khi những người lãnh đạo đất nước này đã tìm ra một vài cách để loại bỏ, hoặc điều chỉnh những giáo điều cổ hủ đã được xác lập từ rất lâu [ Thực chất là họ lèo lái dư luận, và họ tiến hành những chuyển đổi tinh vi hình thức áp đặt này, qua một hình thức áp đặt và khủng bố kiểu khác ] [ Commercial Communism ].

Phần V, tác giả vạch rõ sự sa sút về mặt hệ tư tưởng và chính trị, cũng như việc suy giảm sức hấp dẫn của chủ nghĩa cộng sản ở tầm quốc tế [ Discredisted Praxis ].

Phần VI, phần cuối cùng xem xét một cách khái quát sự Hấp hối của chủ nghĩa cộng sản và hiện tượng Hậu cộng sản [ The Agony of Communism ].

Cũng như nhiều cuốn sách khác viết về chủ đề này trước đây, việc chuyển ngữ cuốn sách vốn đã khó, mà việc tóm tắt lại những tư tưởng chính của cuốn sách, trong một vài trang, lại còn nhiều thách thức hơn nữa… Tuy nhiên, nhận thấy nội dung của cuốn sách có thể vẫn còn phù hợp đối với các độc giả quan tâm tới hiện tình, và tương lai của đất nước, nhưng lại chưa có nhiều thời gian và cơ hội tiếp xúc với những bài viết, những tác phẩm, đã được những học giả lớn trên thế giới, kỳ công nghiên cứu, phân tích, từ nhiều góc độ khác nhau, chúng tôi mạn phép tóm tắt lại tác phẩm này, bằng thể loại ngôn ngữ bình dân hơn, nhưng vẫn cố đảm bảo theo sát với ý nghĩa của bản gốc… Với những thiếu sót còn lại, vốn là điều không thể tránh khỏi trong quá trình tóm tắt lại tác phẩm trong một bài viết ngắn, chúng tôi kính mong được các độc giả độ lượng…

Sự thống trị của chủ nghĩa cộng sản trong phần lớn lịch sử của thế kỷ XX có gốc rễ từ việc nó đã bắt đầu đề cao một quan điểm mà bị xem là “một sự đơn giản hóa cao độ” tất cả những hiện tượng, đời sống xã hội của con người.

Con người vốn dĩ sanh ra đã là những thực thể phức tạp, nhiều con người tạo thành xã hội thì tính phức tạp càng tăng lên. Trong đó, mỗi con người không chỉ có những nhu cầu cơ bản như ăn, ở, mặc, hít thở hay có công ăn việc làm, có niềm vui thưởng ngoạn nghệ thuật, có khát vọng sáng tạo, mà họ còn có hàng trăm hàng ngàn những nhu cầu mà đã không được thể hiện ra dưới dạng “hữu hình”. Ngoài ra, họ cũng còn có hàng trăm hàng ngàn những mối quan hệ thân hữu, cộng đồng, xã hội, kinh tế, tôn giáo, tạo thành một mạng lưới chằng chịt, mà không một thang đo nào có thể sắp xếp chúng cho ổn thỏa, không có hệ thống đo lường nào có thể đánh giá chúng cho tường tận…

Tuy nhiên, mọi sự vận động phức tạp đó, đã hoàn toàn “biến mất”, hay bị đè nén, bị dồn ép lại một cách méo mó, bị đơn giản hóa tới mức cực đại trong các học thuyết của chủ nghĩa cộng sản… Chủ nghĩa cộng sản cho rằng nguồn gốc của mọi cái xấu đơn giản chỉ là SỰ THIẾT LẬP QUYỀN TƯ HỮU TÀI SẢN. Họ tin rằng, nếu xóa bỏ cái TÍNH TƯ HỮU / SỰ TƯ HỮU đó đi thì tự nhiên xã hội sẽ trở nên tốt đẹp hơn, con người có thể đạt tới sự công bằng thật sự và có những cơ hội để hoàn thiện những bản chất tốt đẹp nhất của con người.

Mặt khác, cũng có một sự thật là điều đó lại đã hấp dẫn và tạo ra niềm hy vọng cho hàng trăm triệu con người. Gần như chính xác rằng, sự tuyên truyền như vậy, về mặt tâm lý, nó phù hợp với tình cảm của những khối quần chúng [ phần đông là những người nghèo khổ, không được tiếp cận giáo dục ], mới giác ngộ về mặt chính trị [ Chính xác là những người chưa bao giờ thật sự được học hành nghiêm túc về chính trị, những người chưa thể hiểu chính trị là gì, nhưng lại được gọi là đã “giác ngộ chính trị” ].

Theo ý nghĩa đó, sự hấp dẫn của chủ nghĩa cộng sản có những điểm giống với sự hấp dẫn của các tôn giáo lớn, mỗi tôn giáo đó cung cấp một cách giải thích huyền diệu về cuộc đời. Chính là nhờ sự giải thích vừa mang tính tổng thể, bao quát những vấn đề to lớn, nhưng lại đồng thời được giải thích theo cách rất đơn giản như đã nói ở trên, đã làm nó trở nên vô cùng hấp dẫn, thuyết phục, và nó nhanh chóng trở thành ngọn đuốc dẫn đường cho những hành động nhiệt thành cách mạng…

Thêm vào đó, cũng giống như những tôn giáo lớn, học thuyết cộng sản lại cũng có khả năng cung cấp nhiều mức độ phân tích, từ cách giải thích đơn giản nhất, đến những khái niệm mang tính triết học phức tạp hơn, tùy theo đối tượng mà nó muốn thu hút. Đối với người ít học, chỉ cần học được rằng mọi cuộc đời đều được quy định bởi đấu tranh giai cấp và trạng thái hạnh phúc xã hội sẽ chỉ có thể được hoàn thành bởi xã hội cộng sản.

Đặc biệt là theo quan điểm tâm lý của những “người bị thiệt thòi“, hành động nhiệt thành chính trị để tiêu diệt những người có tài sản, hay những người chỉ cần có đầu óc tư hữu, thực chất là để biện minh cho vấn đề buộc phải sử dụng bạo lực tàn tệ để khuất phục “những kẻ thù của nhân dân”, những kẻ trước đây đã được hưởng thụ vật chất cao hơn thì đến giờ sẽ phải chịu bị sỉ nhục, áp bức và tiêu diệt. Nhưng chủ nghĩa cộng sản còn là một bậc ngụy trang tài tình, khéo léo đến mức tinh tế mà hoàn toàn không dễ có thể nhận ra, đối với ngay cả những người tự cho rằng mình có hiểu biết hơn những người bình dân trong xã hội…

Nó không chỉ thể hiện sự hưởng ứng nồng nhiệt đối với những nỗi lo âu sâu sắc của bộ phận dân chúng ở tầng lớp đáy của xã hội, nó cũng không chỉ thể hiện rằng nó đã làm điều đúng đắn đối với sự căm ghét cái xã hội bất công [ mà do chính nó tiêm nhiễm vào đầu óc dân chúng ]. Nó cũng còn tỏ ra là một hệ thống tư tưởng hiểu biết, sẵn sàng cung cấp một cách nhìn thấu triệt tương lai, cũng như quá khứ, để thỏa mãn lòng khao khát của những bộ phận xã hội mới biết đọc, nhưng lại khao khát hiểu biết mọi thứ về thế giới quanh mình, và cả những người đã có học cao hơn, nhưng vẫn đang loay hoay tìm kiếm một sự giải thích toàn diện về thế giới, nhưng lại không tìm được những giải thích thỏa đáng…

Nếu như đây là KHÔNG PHẢI là những con người đang sống trong một xã hội tự do và rộng mở, có điều kiện tiếp cận với nhiều luồng tư tưởng khác, mà chỉ có một sự lựa chọn duy nhất là học thuyết Marx-Lenin, thì đối với họ, học thuyết này sẽ cung cấp cho họ: Một chìa khóa cho việc hiểu biết lịch sử nhân loại, một công cụ phân tích để nhận định sự năng động của những thay đổi chính trị và xã hội, một sự lý giải tinh vi về đời sống kinh tế, và một loạt những cách nhìn sâu sắc về động cơ thúc đẩy xã hội [ Trang 2 ].

Nó làm cho những người theo chủ nghĩa cộng sản tự cảm thấy mình đúng đắn và đồng thời tự tin… Nó tự xem mình vừa là một hệ thống triết học toàn diện, vừa là khoa học của mọi khoa học. Nó sẵn sàng trao tặng những lời hứa, những sự giải thích phù hợp với mọi đối tượng mà nó muốn thuyết phục. Dù ở mức độ cá nhân hay về mặt tri thức…, nó cung cấp kịp thời sự hướng dẫn, sự khuyên giải mang tính bài học lịch sử, và trên hết, sự đơn giản hóa đến cao độ những cái mà nó cho rằng có thể hoàn thành thông qua hành động chính trị trực tiếp“. Hơn nữa, bằng cách liên kết những cảm xúc nồng nhiệt của con người với với phần lý trí còn non nớt, học thuyết cộng sản nhấn mạnh rằng: “Nhiệt tình chính trị có thể chuyển biến thành quyền lực chính trị to lớn“… “Cùng nhau xây dựng xã hội là điểm xuất phát để nắm được quyền lực chính trị” [ Nắm được quyền lực rồi để làm gì thì họ không giải thích rõ ràng… ].

Nhưng rõ ràng là, cùng với nhau, sự kết hợp này đã sản sinh ra tính tàn ác của quyền lực nhà nước tập trung, là cái trở thành đặc trưng nổi bật nhất của chủ nghĩa cộng sản” [ Trang 3 ].

Sự xuất hiện chủ nghĩa cộng sản như là một biểu hiện chính trị lớn của thế kỷ XX cần được xem xét đồng thời với sự nổi lên của chủ nghĩa phát-xít và chủ nghĩa Nazi. Trên thực tế, giữa chủ nghĩa cộng sản với chủ nghĩa phát-xít và chủ nghĩa Nazi đã có mối quan hệ rõ ràng về loại hình nhà nước, về lịch sử và sự tương đồng về mặt chính trị”.

Cả hai đều là những phản ứng đối với những chấn thương của thời đại công nghiệp hóa, của những bất công trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản, của sự xuất hiện hàng triệu người tự nhiên bị “mất gốc” [ Mất đi những công việc truyền thống, mất đi thị trường truyền thống, mất đi thứ “quyền lực” có tính truyền thống mà những đặc điểm của những xã hội trước đó trao tặng cho họ ].

Những người này đại diện cho thế hệ đầu tiên của những người công nhân công nghiệp, của sự căm ghét giai cấp do những “tổn hại” mà họ phải chịu đựng khi xã hội đột nhiên thay đổi đem lại. Thế Chiến Thứ Nhất dẫn đến sự sụp đổ của những giá trị đương thời và trật tự chính trị ở nước Nga sa hoàng và nước Đức đế chế. Nó tạo nên những sự căng thẳng gay gắt về mặt xã hội ở một đất nước vừa mới bắt đầu bước vào thời kỳ công nghiệp hóa.

Tất cả những điều đó làm nổi lên những phong trào mà ngay từ đầu đã bị lèo lái, bị ràng buộc một cách sai lầm với khái niệm về công bằng xã hội xung quanh [ Thay vì chỉ đấu tranh để đòi được cải thiện điều kiện sống sao cho xứng đáng với sức lao động mà họ đã bỏ ra ], thì họ kêu gọi lòng căm thù xã hội, và tuyên bố bạo lực xã hội cần phải được tiến hành như là một công cụ quan trọng nhất của công cuộc cứu rỗi xã hội.

Cuộc chiến tranh khốc liệt về sau giữa nước Đức Nazi của Hitler với nước Nga Xô Viết của Stalin đã làm cho người ta quên đi đó là một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn giữa hai thành phần của cùng một niềm tin. Dù rằng, một bên thì tuyên bố kiên quyết chống chủ nghĩa Marx và chủ trương một sự CĂM THÙ CHỦNG TỘC chưa từng thấy, còn một bên thì tự xem mình là con đẻ duy nhất của chủ nghĩa Marx bằng cách chủ trương CĂM THÙ GIAI CẤP chưa từng thấy. Nhưng cả hai đều nâng nhà nước lên thành cơ quan cao nhất của hành động tập thể, cả hai đều sử dụng khủng bố tàn bạo như là phương tiện để khiến cả xã hội phải quy phục, và cả hai đều tiến hành những cuộc giết người hàng loạt không có gì so sánh nổi trong lịch sử loài người. Cả hai cũng tổ chức kiểm soát xã hội bằng những cách giống nhau, từ những nhóm thanh niên cuồng nhiệt đến những tên chỉ điểm láng giềng và [ lèo lái ] những phương tiện thông tin đại chúng tập trung đã hoàn toàn bị kiểm duyệt. Và cuối cùng, cả hai đều nhận định rằng họ dấn mình vào sự nghiệp xây dựng những nhà nước đầy quyền uy “xã hội chủ nghĩa”.

Cần ghi nhận ở đây rằng Hitler là một kẻ học trò khao khát học những cách thực hành chính trị do Lenin và Mussolini khởi xướng. Cả hai người đó đều là những người báo trước cho những hành động của Hitler, đặc biệt là về mặt sử dụng những phương tiện thông tin đại chúng mới nhằm kích động, và sau đó động viên những đám quần chúng mới thức tỉnh về mặt chính trị. Nhưng cả ba đều là những người tiên phong trong việc đi tìm quyền lực tuyệt đối… Về mặt triết học, cả Lenin và Hitler đều biện minh cho những hệ tư tưởng kêu gọi xây dựng xã hội trên quy mô tập trung, đều tự cho họ vai trò là những người nắm toàn quyền chân lý, đều làm cho xã hội phụ thuộc vào đạo đức của một hệ tư tưởng, đạo đức duy nhất, mà đối với Lenin là dựa trên cơ sở đấu tranh giai cấp, còn đối với Hitler là sự bá chủ về chủng tộc, để rồi từ đó, biện minh cho sự lựa chọn mọi hành động của họ… Về mặt thể chế, Hitler học ở Lenin cách xây dựng nhà nước dựa trên sự khủng bố, hoàn thiện nó với bộ máy cảnh sát bí mật, với những bản án chỉ có trên hình thức mà thực chất là nội dung đã được dàn dựng.

Trên thực tế, không có gì quá đáng để nói rằng Hitler là một phần tử Leninist cũng như Stalin là một phần tử Nazi. Cả hai bạo chúa đều biện minh cho việc áp đặt hoàn toàn sự kiểm soát của Nhà Nước bằng cách tuyên bố công khai những mục tiêu xây dựng lại xã hội từ gốc đến ngọn với một khái niệm vừa giáo điều vừa mơ hồ về một trật tự xã hội không tưởng mới. Việc xây dựng này lại chỉ có thể hoàn thành thông qua việc sử dụng trực tiếp quyền lực nhà nước, tiêu diệt các hình thái xã hội truyền thống và loại trừ mọi biểu hiện của các phong trào tự phát xã hội.” [ Trang 7-8 ].

[ Cần nói thêm rằng, tất cả những quan điểm này cũng hoàn toàn tương đồng với những gì học giả Hayek đã chỉ ra trong cuốn “Đường Về Nô Lệ”, xuất bản từ năm 1944 ].

Chế độ cộng sản cho đến năm 1917 chỉ thu hẹp ở một phần của đế chế của Sa Hoàng thì sau đó đã lan qua hầu hết Trung Âu. Trung Quốc đã tuyên bố trung thành với mô hình Xô Viết từ năm 1949. Tiếp đó, chế độ cộng sản xuất hiện ở một nửa nước Triều Tiên năm 1945 và ở một nửa nước Việt Nam năm 1954. Trong vòng một thập kỷ sau khi Thế Chiến Thứ Hai kết thúc, hơn một tỷ người sống dưới chế độ cộng sản… Trong những thập kỷ sau đó, thế giới chứng kiến ở hầu khắp những nơi này, khuynh hướng dựa trên hành động độc tài chuyên quyền của nhà nước để đối phó với tình trạng tồi tệ về kinh tế và xã hội trở nên thắng thế. Trong những năm 1950 và 1960, phần lớn thế giới thứ ba đều hoan nghênh không chút phê phán mô hình Xô Viết, xem nó như là con đường tốt nhất và nhanh nhất dẫn đến hiện đại hóa và công bằng xã hội.

Những nhà lãnh đạo Xô Viết, trong những chuyến đi ra nước ngoài, được tắm mình trong sự nịnh hót và họ thoải mái khuyến cáo một cách vô trách nhiệm, việc làm cách nào tốt nhất để đi đến chủ nghĩa xã hội như những gì mà Liên Xô đã làm.

Tình trạng tương tự như vậy chắc chắn là không thể xảy ra ở những xã hội có truyền thống dân chủ mạnh mẽ. Những quốc gia dân chủ đã luôn tiến hành những cố gắng đặc biệt để nhằm ngăn chặn một sự tập trung quá đáng quyền lực trong tay các cá nhân, cũng như giảm thiểu việc cá nhân hoặc các nhóm lợi ích lạm dụng quyền lực chính trị. Sự tự do lựa chọn của các cá nhân đã luôn được bảo vệ.

Sự mê hoặc đầu tiên được tạo ra bởi những cố gắng phi thường của Liên Xô nhằm xây dựng một xã hội mới trong những năm 1930, lại tăng lên mạnh mẽ với sự kiện Stalin đánh bại Hitler. Những thành tựu của hệ thống Xô Viết cũng như những lời hứa hẹn là đưa thế kỷ XX vào một thời đại được thống trị của chủ nghĩa cộng sản đã trở nên có sức hấp dẫn đặc biệt… Tuy nhiên, chỉ chưa đầy một thế kỷ kể từ sự khởi đầu của nó, chủ nghĩa cộng sản đã trượt dài trên con đường tàn lụi: Những tư tưởng và thực tế gắn bó với chủ nghĩa cộng sản đã hoàn toàn mất uy tín, trong nội bộ chủ nghĩa cộng sản thế giới cũng như bên ngoài nó.

Vào cuối những năm 1980, để thúc đẩy nền kinh tế đã hoàn toàn trì trệ của họ lê lết đến chỗ đạt được năng suất cao hơn, và để động viên công nhân của họ có những cố gắng lớn hơn, những nhà lãnh đạo cộng sản ở Liên Xô, Trung Quốc và Đông Âu, đã không thể làm gì, ngoài việc gián tiếp hay trực tiếp thừa nhận sự sai lầm có hệ thống của họ… Theo báo Sự Thật [ Pravda ], Liên Xô ngày 11/8/1988, công nhân Xô Viết được nghe Alexandre Yakovlev, thành viên của Bộ Chính Trị tuyên bố rằng ngày nay “tư tưởng hữu sản phải được đề cao”, “nhận thức về quyền sở hữu là một điều tốt, vì khi người công nhân có lợi ích ở một cái gì đó thì người ta sẽ làm cả việc dời núi, nếu không có lợi ích đó, người ta sẽ thờ ơ”. Ở Ba Lan, một ủy viên bộ chính trị, Stanislaw Ciosek nói rằng: “Không thể cải thiện được đời sống theo một mức độ như nhau đối với mọi người”. “Chắc chắn rằng ai phục vụ nền kinh tế của đất nước tốt thì sẽ được trả công khá hơn”. Ciosek nói thêm: “Đó là những quy luật cứng rắn của kinh tế”. Và chỉ một vài tháng trước đó, ở tận cùng viễn đông của thế giới cộng sản, công nhân Trung Quốc được Hồ Khởi Lập, một ủy viên mới của Bộ Chính Trị mở mắt cho về mặt hệ tư tưởng. Ông ta nói: “Cái gì có lợi cho sự phát triển của lực lượng sản xuất là cần thiết và được chủ nghĩa xã hội cho phép” [ Trang 11 ].

Rõ ràng, cho tới thời điểm nói trên, chủ nghĩa cộng sản đã gần như không thể chối bỏ rằng, họ không thể tồn tại được nếu như không có những “bệ đỡ” tối quan trọng mà chủ nghĩa tư bản đã xây dựng: Quyền tư hữu cá nhân, tự do sáng tạo của các cá nhân, và hệ thống kinh tế thị trường tự do cạnh tranh.. Vào đêm trước thập kỷ cuối cùng của thế kỷ, hầu hết mọi hệ thống cộng sản đều tiến hành cải cách mà trên thực tế là có giá trị tương đương với sự bác bỏ kinh nghiệm Marx-Lenin.

Điều quan trọng nhất là chúng cũng bác bỏ về mặt triết học những tiền đề nguồn gốc của chủ nghĩa cộng sản. Ở khắp mọi nơi trong các nước xã hội chủ nghĩa ngày nay, việc ca tụng Nhà Nước đã dần dần phải nhường chỗ cho việc phục hồi nhân quyền, sáng kiến cá nhân và ngay cả kinh doanh tư nhân. Sự rút lui của chủ nghĩa độc tài toàn trị, sự ưu tiên ngày càng tăng lên đối với quyền con người và sự chuyển sang chủ nghĩa thực dụng kinh tế, đặc biệt là ở khu vực Đông Âu, nơi còn lưu giữ những kết nối lịch sử gần gũi với truyền thống tự do của Phương Tây cổ đại, chính là những biểu hiện tiêu biểu cho một cuộc cách mạng to lớn về thái độ và về triết lý cơ bản đối với cuộc sống của con người.

Nhìn xa hơn, đó chính là một bước ngoặt mà chắc chắn là sẽ đem lại những kết quả có tác động lâu dài. Nó sẽ tạo ra những ảnh hưởng cả về kinh tế và chính trị trên quy mô toàn thế giới. Và càng ngày người ta càng thấy rõ ràng, nó báo trước khả năng là vào ngày đầu tiên của kỷ nguyên mới, học thuyết cộng sản, lần này đã được chứng minh một cách xác thực, rằng nó chỉ còn giữ một tầm quan trọng vô cùng nhỏ bé đối với tương lai của nhân loại trong thế kỷ XXI.

Tuy nhiên, trong xã hội loài người, mọi việc lại cũng sẽ không chỉ kết thúc đơn giản như vậy. Cuộc khủng hoảng cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản hiện đại sẽ đưa đến những câu hỏi về ĐIỀU GÌ SẼ XẢY RA TIẾP THEO, đối với những học thuyết của nó, cũng như những thực tiễn triển khai đã diễn ra trong thế kỷ này.

Mặt khác, việc xem xét một cách nghiêm túc về những học thuyết vĩ đại, mơ hồ, nhưng có sức hút to lớn của chủ nghĩa cộng sản, thứ mà đã đem lại những niềm hy vọng, cũng như những sự thất vọng to lớn, những thất bại khổng lồ, trong cả giới lãnh đạo lẫn dân chúng, và đặc biệt là những tội ác khủng khiếp, tích tụ lại qua nhiều năm tháng, đã làm mất tín nhiệm hoàn toàn một hệ tư tưởng, một phong trào chính trị, là điều vẫn còn cần thiết, và phải làm. Nó có thể dẫn chúng ta đến với một chìa khóa để hiểu biết sâu sắc, khoa học, và có hệ thống… về nhiều vấn đề khác nhau mà có liên quan tới cuộc sống của hàng tỷ con người trong thời kỳ hiện tại, và tương lai…

Cuối cùng, việc phân tích về những mô hình đã được thực nghiệm và đã thất bại của những xã hội cộng sản này liệu có thể được xem như là một cánh cửa dẫn tới con đường cứu vớt [ đối với các quốc gia, với những nhóm người đã, đang, và vẫn còn cảm tình với chế độ cộng sản ] chăng? [ Trang 12 ].

Tác Giả: Từ Liên.

Câu Chuyện Vaxin: Bà Thái Anh Văn Và Quan Đảng Việt Nam. Tác Giả: Từ Liên.

Mà dân Việt Nam hẳn cũng sẽ suy nghĩ như dân Đài Loan, nếu họ tận mắt chứng kiến lãnh đạo cấp cao của Đảng cộng sản giành nhau đi chích Sinopharm hoặc Sputnik…

Bữa nay, hàng loạt các hãng tin lớn của thế giới, đăng bản tin, Bà nữ Tổng Thống Đài Loan, Thái Anh Văn [ tên tiếng Anh của Bà là Tsai Ing-wen ], đã trở thành một trong những người đầu tiên chích một trong hai loại vaxin đang ở giai đoạn cuối của đợt thử nghiệm, do chính các công ty Đài Loan phát triển… Loại Vaxin mà Bà chích là sản phẩm của hãng dược Medigen, vừa được cấp phép sử dụng trong tình trạng khẩn cấp.

Cùng với ngài nữ Tổng Thống, ngài Phó Tổng Thống là ông Lại Thanh Đức cũng sẽ chích một loại vaxin đang thử nghiệm của một hãng dược khác ở Đài Loan là United Biomedical, hiện chưa được cấp phép sử dụng khẩn cấp tại Đài Loan. United Biomedical đã đưa ra dữ liệu thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 2 và nộp đơn đề nghị chứng nhận sử dụng khẩn cấp hồi cuối Tháng Sáu.

Viết trên mạng xã hội của riêng mình, bà Thái cho biết đã đăng ký tiêm mũi đầu tiên thông qua chương trình đăng ký hẹn tiêm của chính quyền. Chương trình này cho phép chọn lựa vaxin và đăng ký lịch khi có vaxin. Bà cũng cam kết với dân chúng rằng “Chính quyền sẽ chỉ cung cấp các vaxin an toàn, hiệu quả, hợp pháp và đáp ứng các tiêu chuẩn khoa học”.

Sau bản tin này, thì nhiều người mới được biết rằng, cho tới giờ phút này, trải qua mấy đợt bệnh dịch hoành hành ở quốc đảo Đài Loan, những người lãnh đạo ở cấp cao nhất của Đài Loan đều chưa được tiêm vaxin ngừa Covid, và cả hai nhà lãnh đạo đều bày tỏ ý định sẽ tiêm vaxin nội địa để mọi người dân tin tưởng, dù Đài Loan đã nhận được các liều vaxin AstraZeneca và Moderna qua cơ chế COVAX, cũng như chính phủ tự mua thêm.

Các videos trên mạng đã tường thuật lại toàn bộ và chi tiết quá trình Bà Thái Anh Văn đi chích vaxin thử nghiệm. Bà Tổng Thống coi bộ rất bình tĩnh trong lúc chuẩn bị chích. Bà còn lịch sự xin lỗi những y tá đang đang làm công việc chuẩn bị chích cho bà, vì trong khi Bà đang ngồi chờ, Bà vẫn phải trả lời những phóng viên đang theo dõi buổi ghi hình trực tiếp, đặt câu hỏi cho Bà, từ khoảng cách gần đó.

Khoảnh khắc đó thật sự làm lay động trái tim người dân của Bà, và có lẽ là của cả những người dân không phải là dân của quốc đảo Đài Loan.

Nhưng chắc nó không đủ lay động nổi trái tim các quan chức cộng sản ở các xứ độc tài toàn trị.

Ở Việt Nam, các quan Đảng thường dạy dân như thế này, “Thứ nhất, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải phát huy tốt vai trò, trách nhiệm nêu gương trong học tập và làm theo Bác, bởi vì: “Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Thứ hai, người có chức vụ càng cao, cương vị càng lớn càng cần phải nêu gương về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, phong cách làm việc, học tập, sinh hoạt trước cán bộ, đảng viên và nhân dân, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Thứ ba, để nêu gương có hiệu quả, mỗi cán bộ, đảng viên, người đứng đầu phải là những tấm gương sáng về phẩm chất và năng lực, trở thành mẫu số chung để mọi người noi theo. Do đó, phải xây dựng, bồi dưỡng và nhân rộng những tấm gương điển hình tiên tiến trong hoạt động thực tiễn [ https://tuyengiao.vn/theo-guong-bac/vai-tro-neu-guong-cua-can-bo-dang-vien-trong-hoc-tap-va-lam-theo-guong-bac-134731 ].

Tuy nhiên, làm thế nào để các đảng viên cộng sản có thể làm được điều này, thì Ban Tuyên Giáo chỉ hướng dẫn đơn giản, “Nghiêm túc học và làm theo Bác Hồ.

Tiếp theo, Tuyên Giáo nói, Bác Hồ dạy phải làm sao cho nhân dân biết “hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm”, dám chịu trách nhiệm. Và để làm được những điều này, thì Đảng phải “Luôn giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, khách quan”.

Hỏi qua đáp lại một hồi thì, không ai hiểu tuyên giáo đang nói cái gì và hướng dẫn đảng viên làm cái gì luôn. Bởi vì cả hướng dẫn hành động để đạt được mục tiêu, và bản thân mục tiêu đưa ra, chỉ có cùng một nội dung, là quay trở về với Bác Hồ. Chưa kể, Đảng đồng hóa quyền “tự do, dân chủ” của người dân với quyền lực của Đảng “dân chủ tập trung” áp đặt lên người dân. Điều này giống như một câu chuyện cười mà học trò hay kể nhau nghe:

“Điều 1: thầy cô luôn đúng

Điều 2: nếu sai xem lại điều 1”.

Chắc là do Tuyên Giáo dạy đảng viên như vậy, nên ở cái xứ Đông Lào này, người dân thấy cái gì đảng viên cũng nêu gương trước. Lấy một vài ví dụ tiêu biểu:

  1. Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục bị nghi xài bằng giả, sợ thông tin bị khui ra, ông ta liền ra luật các thông tin về Hội Đồng Giáo Sư, Phó Giáo Sư Nhà Nước, là thông tin “Mật”, người dân không được tiếp cận.
  2. Cục Trưởng Cục Phòng Chống Tội Phạm Công Nghệ Cao mở sòng bạc trực tuyến.
  3. Phó Tổng Cục Tình Báo nhận hối lộ 5 tỷ để báo tin cho tội phạm bỏ trốn.
  4. Chủ Tịch Xã, Phường tụ tập đánh bạc trong mùa dịch bệnh.
  5. Thành Viên Hội Đồng Lý Luận Trung Ương, Phó Giám Đốc Sở đi chơi golf mùa dịch.
  6. Tổng Giám Đốc Công Ty Cây Xanh nâng khống giá cây chiếm đoạt tiền…
  7. Phó Giám Đốc Sở Kế Hoạch – Đầu Tư sàm sỡ nhân viên trong văn phòng…
  8. Mới đây, Cục Phó Cục Quản Lý Thị Trường Trần Hùng cùng nhóm cán bộ thuộc Cục Quản Lý Thị Trường Hà Nội, là lực lượng được giao nhiệm vụ đấu tranh chống hàng giả nhưng lại bị khởi tố, bắt tạm giam để điều tra vì liên quan vụ án sản xuất, tiêu thụ sách giả lớn nhất từ trước tới nay [ https://sohuutritue.net.vn/cuu-cuc-pho-cuc-quan-ly-thi-truong-tran-hung-lien-quan-gi-den-duong-day-sach-gia-d108076.html ].

[ Toàn là báo Đảng đăng tin cả đó ].

Vậy mà hở dân nào học đòi làm theo tấm gương của họ, là họ làm ầm ĩ lên thấy ghê lắm, họ chửi dân ngu, dân tham, dân thiếu hiểu biết, dân làm băng hoại xã hội, dân làm hổ nhục mặt Đảng… Còn ông đảng viên nào lên kế nhiệm, thì cũng thực hành những tấm gương y như người tiền nhiệm của mình vậy, có khi còn ăn tàn phá hại, vô liêm sỉ hơn nữa, mà quan Đảng nào cũng coi như đó là chuyện đương nhiên, là chuyện noi gương Bác Hồ.

Thành viên Đảng giành nhau mấy cái ghế đó bằng đủ mọi thủ đoạn. Ông đảng viên này đẩy được ông quan Đảng kia xuống, rồi lại bị ông quan đảng khác tìm cách phế mình đi, những chuyện này hoàn toàn không có liên quan gì tới dân, nói cách khác, dân chẳng có tiếng nói gì với mấy cái vị trí mà mấy ông quan Đảng nhảy lên ngồi. Nhưng lúc nào Đảng cũng nói mấy ông đó lên là do dân bầu theo nguyên tắc “Dân chủ, công khai”, dân lựa người “Có tâm, có tầm” lãnh đạo họ. Vì vậy nên “Dân sai, dân chịu trách nhiệm trước pháp luật. Đảng sai, Đảng xin lỗi dân“.

Vậy là quanh năm suốt tháng, Đảng lo mua bán, dàn xếp, chiến đấu với thành viên của Đảng không cũng mệt mỏi muốn xỉu rồi, thời gian còn lại, Đảng phải lo đi tóm bọn phản động đòi tự do, giam giữ chúng vô tù, khuất phục chúng bằng vũ lực… Đảng còn đâu hơi sức mà lo cho dân nữa…

Quay trở lại việc chích vaxin…

Cho tới giờ này, thì ai cũng biết là những người lãnh đạo của Đảng cầm quyền Đông Lào, cùng một số lượng lớn đảng viên trung kiên, ai cũng đã được chích ít nhất là một mũi vaxin. Theo những thông tin chính thức, lẫn ngoài lề, thì người ta biết rằng hầu như toàn bộ lượng vaxin Mỹ được rót về Việt Nam theo chương trình COVAX, đã được các quan Đảng và gia đình chia nhau chích hết, kế đến là vaxin AstraZeneca do Nhật và một số quốc gia khác tài trợ…

Chưa có bất cứ quan chức Việt cộng nào lên mạng khoe chích vaxin Sinopharm, Vero Cell, Sputnik, hay tham gia thử nghiệm vaxin Nanocovax của Việt Nam, dù cho họ thông báo là Nanocovax đạt hiệu quả bảo vệ 90%, còn có phần vượt trội hơn cả Moderna hay Pfizer nữa.

Quan chức Đảng đi trước làm gương, chích toàn vaxin sản xuất tại Mỹ, Nhật, nhưng hở người dân phản đối chuyện bắt họ phải chích vaxin Tàu cộng, thì Đảng kêu dân “kén cá chọn canh“… Hàng chục ngàn dư luận viên, những người tự xưng là bác sĩ, giáo sư [ Không rõ dạy ở đâu hay làm ở bệnh viện nào ], hàng loạt những người được gọi là KOL [ Key Opinion Leader tức Ngôi Sao Định Hướng Dư Luận ], lên mạng kêu gọi người dân có gì chích nấy, đừng có kiểu “Con nhà lính, tính nhà quan” mà nhiễm bệnh. Có người nói, hàng ngày, dân xài tới 90% là hàng Tàu cộng rồi có làm sao đâu, mà giờ nói chích vaxin Tàu thì bày đặt phản đối.

Nhiều người còn chửi những người dân không chích là ngu, là vô trách nhiệm với cộng đồng… Dân mạng nghe vậy thì đi tìm danh tính các anh chị này, lôi ra một đống các anh chị đã chích từ một tới hai mũi vaxin sản xuất tại Mỹ, Nhật…

Ở đây chưa kể tới chuyện dân người ta đã đóng tiền vào quỹ vaxin, người ta sẵn lòng chờ vaxin tốt, người ta có quyền chọn lựa vaxin phù hợp với mong đợi của người ta. Chỉ cần nói chuyện đơn giản hơn, Đảng dạy dân là phải noi theo Đảng và các quan chức Đảng, các anh chị đảng viên, vậy mà tới khi dân chỉ mới rục rịch đòi làm theo họ, muốn xài đồ tốt giống họ, thì họ chửi dân “Nghèo mà đòi ăn xôi gấc”. Hình như đối với đám quan Đảng, dân không phải là con người, dân chưa bao giờ là con người…

Trở lại với câu chuyện của Bà Tổng Thống Thái Anh Văn…

Theo thông tin giới thiệu trên Wiki, Bà Thái tốt nghiệp Luật Khoa tại Đại Học Quốc Lập Đài Loan ( năm 1978 ), tốt nghiệp Thạc sĩ tại Đại Học Cornell ( năm 1980 ), và lấy học vị Tiến sĩ tại Trường Kinh Tế và Khoa Học Chính Trị Luân Đôn ( năm 1984 ). Sau khi trở về Đài Loan, Bà đã giữ nhiều chức vụ chuyên môn ở nhiều trường đại học cho đến năm 1993, trước khi được bổ nhiệm vào các cơ quan chính quyền.

Như vậy là bà Thái không có cái may mắn được học chính trị Mác Lê Nin và tư tưởng Mao Trạch Đông, tư tưởng Tập Cận Bình, hay tư tưởng Hồ Chí Minh…, như các quan Đảng của xứ Đông Lào.

Hẳn là Bà Thái cũng không lấy đâu ra thời gian để ngày đêm tốn công sức đi hò hét, ép buộc những quan chức dưới quyền của Bà phải đi học các học thuyết trên, hoặc phải làm gương cho dân của họ, theo sự chỉ dạy của các học thuyết Mác Lê…

Mà chắc chắn là Bà Thái cũng có sự hiểu biết sâu rộng về những nền văn hóa tiến bộ nhất của Phương Tây. Bà Thái biết những nghiên cứu khoa học của họ có uy tín cao, biết những loại vaxin của họ sản xuất ra là những vaxin có độ tin cậy…

Nhưng Bà Thái vẫn chờ để chích vaxin của Đài Loan, vaxin của nước Bà sản xuất, còn đang ở trong những giai đoạn thử nghiệm cuối cùng…

Bà Thái muốn đảm bảo với dân của Bà rằng, Bà sẽ không phải là người đầu tiên đi chích những loại vaxin tốt nhất hiện có, Bà sẽ không giành phần chích với dân chúng. Bà sẽ chờ để chích vaxin “made in Taiwan”, để đảm bảo với dân chúng rằng, đó sẽ là một loại vaxin đủ an toàn cho mọi người, ngay cả với người có vị trí cao nhất trong toàn thể đất nước…

Bà Thái cũng chẳng phải nhờ một tập đoàn khủng khiếp những cơ quan tuyên truyền, tuyên giáo, dư luận viên, KOLs ( Key Opinion Leaders ), các “tiên sư giáo sĩ” đóng vai bù nhìn, con rối, để tuyên truyền cho hình ảnh lãnh đạo làm gương của Bà. Bà cũng chẳng cần nhờ các công ty quảng cáo, truyền thông, tuyên truyền, định hướng, ca ngợi thành tựu của nền y học của đảo quốc nơi Bà làm lãnh đạo…

Gần như có thể phỏng đoán rằng, bằng hình ảnh Bà đang tạo dựng ra ngày hôm qua, dân chúng ở quốc đảo Đài Loan sẽ không phải cân nhắc nhiều nếu họ được yêu cầu phải chích vaxin của Đài Loan…

Mà dân Việt Nam hẳn cũng sẽ suy nghĩ như dân Đài Loan, nếu họ tận mắt chứng kiến lãnh đạo cấp cao của Đảng cộng sản giành nhau đi chích Sinopharm hoặc Sputnik…

Hẳn mọi người còn nhớ cuộc chiến tranh vì trái Thơm ( trái Dứa ) hồi đầu năm 2021.

Vào Tháng Hai, 2021, Trung Quốc đã bất ngờ thông báo về quyết định cấm nhập thơm từ đảo Đài Loan với lý do mặt hàng này có sinh vật gây hại. Dĩ nhiên, mọi người đều hiểu, nguồn gốc của lệnh cấm này đến từ lý do chính trị, cũng như lý do Trung Quốc đã cấm nhập rượu vang từ Úc Đại Lợi trước đó…

Ngay sau khi có lệnh cấm này, bà Thái Anh Văn đã ra tuyên bố trên Twitter của bà, “Sau rượu vang Úc, Trung Quốc lại nhắm tiếp tới thơm Đài Loan với cách hành xử không công bằng trong thương mại. Nhưng điều đó không khiến chúng tôi chùn bước đâu. Hãy ủng hộ nông dân Đài Loan và thưởng thức loại nông sản thơm ngon của chúng tôi“. Đồng thời, chính phủ của Bà cũng cam kết sẽ chi gần 36 triệu USD hỗ trợ ngay lập tức cho các nông dân trồng Thơm bị ảnh hưởng. Bà cũng yêu cầu tiếp thị thơm đến các thị trường khác như Mỹ, Singapore, Nhật, và mở các chiến dịch giải cứu thơm tại Đài Loan.

Kết quả là, sau đó Mỹ, Nhật và Canada đã hưởng ứng lời giải cứu này, chỉ trong 4 ngày Đài Loan ‘giải cứu thơm’ hơn cả năm xuất đi Trung Quốc, Chiến dịch “giải cứu thơm” của các doanh nghiệp Đài Loan đã thành công ngoài mong đợi.

Ai cũng có quyền ngờ rằng, nếu không phải là nhờ những phản ứng tích cực và quyết liệt của bà Thái Anh Văn, nếu không phải là nhờ uy tín của cá nhân bà và các thành viên trong Nội Các của bà, cũng như không nhờ bản thân các công ty nông nghiệp Đài Loan đã nỗ lực trong việc xây dựng thương hiệu và đảm bảo chất lượng cho sản phẩm của Đài Loan, từ khi Đài Loan tách khỏi Tàu cộng, thì khó có quốc gia nào có thể kêu gọi một chiến lược giải cứu sản phẩm thành công như vậy…

Nhìn lại những sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam bị kẹt lại ở các cửa khẩu qua Tàu cộng mỗi năm, có tới hàng trăm, hàng ngàn xe, hàng chục ngàn tấn sản phẩm, mà không ai lại không xót xa… Bài ca được mùa rớt giá, mất mùa được giá, là bài ca mỗi năm nông dân Việt Nam mỗi ca lại.

Nhìn lại những nông sản của Việt Nam bị chặn nghẽn đầu ra trong suốt mùa dịch Covid, ở đồng bằng Sông Cửu Long, ở Đà Lạt, Tây Nguyên, có tới hàng trăm hàng ngàn tấn các loại, từ rau củ, trái cây, lúa gạo, sữa, gia súc, gia cầm…, không ai lại không phẫn nộ…

Suốt mùa dịch, cho tới tận thời điểm hiện tại, các lãnh đạo Đảng chỉ lo chỉ đạo công an, quân đội, dư luận viên, nhân viên hành chính đi làm công tác dập dịch, toàn bộ số phận của người dân, và những vấn đề liên quan mật thiết tới sự sống còn của mạch máu nền kinh tế quốc gia thì không thấy ai bàn tới: Dân sống ra sao khi bị phong tỏa, mất việc làm, không còn thu nhập? Nông sản bán cho ai? Hàng hóa vận chuyển ra sao? Ốm đau bệnh tật phải kêu gọi ai? Học sinh học hành thi cử như thế nào? Đảng không chỉ làm cho người dân thường mệt mỏi, kiệt quệ, mà cả những người có trách nhiệm như bác sĩ, giáo viên, chuyên gia, tiểu thương, …, cũng thật sự chán nản, kiệt sức.

Bữa nay, sau ngày đầu tiên Sài Gòn ở trong tình trạng bị “Siết chặt”, trên báo chí mạng, tràn ngập những hình ảnh các anh bộ đội cụ Hồ dép râu nón cối, từ miệt ngoài vào giúp đỡ bà con trong Sài Gòn… Các anh được trau chuốt hình ảnh, xuất hiện hết sức thân thiện và nhiệt tình, với súng AK ôm trên tay, chào đón dân chúng. Có phản động liền nghĩ ngay ra câu chuyện, Sài Gòn đã chuyển từ tình trạng 5K ( Khẩu trang – Khử khuẩn – Khoảng cách – Không tập trung – Khai báo y tế ), qua tình trạng 6K ( + thêm AK ).

Không biết Đảng, nhà nước, chính phủ muốn nhân dân làm gương theo họ cái chuyện gì vào mùa dịch này đây, khi người của nhà Đảng đủ ăn, đủ mặc, có lương hàng tháng, huênh hoang đi qua đi lại khuyên người dân thế này thế nọ. Đảng có muốn nhân dân cũng tự trang bị súng để đối phó với Đảng, theo gương các chiến sĩ của Đảng đang làm ở ngoài đường một cách đầy hăm dọa đối với dân không…?

Sáng nay, báo Thanh Niên lại cho đăng bài, “TP.HCM đang làm gì để không còn cảnh ‘người dân lên mạng kêu đói’”. Lý do mà anh phóng viên viết bài nêu ra là “Chưa bao giờ, tại TP.HCM, trên mạng xã hội xuất hiện nhiều người dân lên tiếng cầu cứu, cần trợ giúp khẩn cấp lương thực, thực phẩm… như trong thời gian bùng phát dịch Covid-19 khiến giãn cách xã hội kéo dài”… Người đọc kiếm đỏ con mắt coi quan chức Đảng thành Hồ tính làm gì để giúp người dân trong hoàn cảnh này. Đọc tới cuối bài viết, người đọc thấy một tấm bảng in màu đặc biệt:

Lời kêu gọi “lá lành đùm lá rách

Để cùng chung tay đẩy lùi đại dịch Covid-19, Ban Thường Trực Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam TP.HCM – Ban Vận Động, Tiếp Nhận và Phân Phối Quỹ Phòng, Chống Dịch Covid-19 TP.HCM kêu gọi đồng bào các giới, các tầng lớp nhân dân, các tổ chức, cá nhân chia sẻ, đóng góp với tinh thần “lá lành đùm lá rách”, vì sự bình an của người dân TP.HCM.

Bằng tiền mặt và hàng hóa: tại Cơ quan Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam TP.HCM, số 55 Mạc Đĩnh Chi, P.Đa Kao, Q.1 [ Kèm theo số tài khoản ngân hàng của Mặt Trận Tổ Quốc ]” [ https://thanhnien.vn/thoi-su/tphcm-dang-lam-gi-de-khong-con-canh-nguoi-dan-len-mang-keu-doi-1434856.html ].

Dân tình đọc tới đây, tự nhiên ngẩn ngơ, không biết vậy là giải pháp của các quan Đảng thành Hồ là gì. Có phản động đoán là, nếu tin mà đưa ra như thế này, chắc chắn là do lệnh siết chặt mới, các thể loại phản động đã bị cấm cửa ngồi ở nhà, không thể liều mình chạy ra đường giúp dân nghèo được nữa, nên Đảng không sao mà lo cho dân nổi. Từ mùa này qua mùa khác, Đảng toàn ăn bám danh tiếng những nhóm cộng đồng trợ giúp cho dân. Giờ các nhóm vừa mới ngưng hoạt động là Đảng chới với như người sắp chết đuối liền…

Mở qua trang báo khác, lại nhìn thấy tin “Ông Phan Văn Mãi được bầu làm Chủ Tịch UBND TP.HCM thay ông Nguyễn Thành Phong”.

…Vậy là dân tình hiểu rồi đó…

Anh Mãi này chính là người thay mặt Đảng phát động phong trào “Lấy sức dân lo cho dân”, tiếng tăm lừng lẫy trên mạng trong tuần trước…

Ảnh lên làm lãnh đạo cấp cao hơn, hèn gì, kế này tiếp tục được kêu gọi thực hiện “triệt để”.

Mà hỏi thiệt, Đảng muốn dân làm gương theo các quan Đảng làm sao cho hợp với ý Đảng đây?

Còn nếu Đảng nhắm chắc chắn Dân không có cách nào làm theo các quan Đảng được, thì sao Đảng không dẹp mấy màn kịch dở ẹc của Đảng đi cho dân người ta nhờ, sao Đảng không làm theo gương dân đi cho nó lẹ?

Làm theo gương của dân, đơn giản lắm:

Thứ nhất là, đảng viên bỏ tiền ra làm công tác cộng đồng, cứu trợ cho nhân dân, đảng viên cấp cao, biệt thự nhiều, nhà cao cửa rộng, đóng nhiều, đảng viên cấp nhỏ, nhà nhỏ, đóng ít. Mà nói thiệt thì dân nghĩ rằng, cũng chẳng cần tới mấy anh cấp nhỏ đâu, chỉ cần mấy anh cấp lớn chịu mở két bạc của mấy ảnh quăng ra một nắm, là cũng đủ cho dân nghèo, đang chờ cứu trợ ở thành Hồ sống được vài tuần rồi. Người đẹp trường đua thông báo một mình nàng gom được 1,000 tỷ, chẳng lẽ mấy anh quan Đảng ở thành Hồ lại chịu thua cổ sao? Nếu các quan Đảng, đảng viên nhả tiền ra làm cứu trợ, đảm bảo dân ào ào nhào vô giúp đỡ quý vị, mà dân không thèm tranh giành công, công để quý vị hưởng hết, quý vị góp tiền, dân góp sức…

Thứ hai, mấy quý vị làm ơn minh bạch với toàn dân những khoản tiền khổng lồ đang nằm trong các quỹ kết dư các loại bảo hiểm, các loại tiền dân đóng mua vaxin, các loại thuế mà dân đã đóng…? Giờ đi đâu hết rồi mà không mang ra làm công việc cứu trợ cho dân? Quý vị mà làm được việc này, đảm bảo dân phục sát đất quý vị, cứu trợ dân qua đợt khó khăn này, dân nhào vô làm việc như trâu như bò trả ơn quý vị, quý vị muốn được ca tụng bao nhiêu cũng được, dân sẵn lòng nhường mọi công trạng, tiếng tăm cho quý vị.

Thứ ba, quý vị làm ơn công khai minh bạc những loại vaxin nào đang có mặt tại Việt Nam? Dân đang được chích loại gì? Tôi chưa thấy ai nói đi chích vaxin ở trong Sài Gòn mà được thấy cái vỏ thuốc hay cái lọ thuốc nó ra sao, nó sản xuất ở đâu, tên nó là gì, còn hạn hay hết hạn? Dung tích nó bao nhiêu? Tất cả những giấy tờ tôi được người khác cho coi là những tên thuốc được viết bằng tay, không một ai từng đi chích dám nói rằng chắc chắn rằng mình biết mình được chích loại nào, như vậy có phải là thiếu công bằng với người đóng thuế mua vaxin không? Trừ một số nơi hiện nay, do người dân phản ứng dữ quá, người ta công khai cho người dân biết rằng họ hiện tại chỉ có vaxin Tàu cộng. Nhưng ngay cả ở những nơi mà người đi chích được thông báo rằng, họ đã được chích các loại vaxin khác, cũng không ai thấy mặt mũi hộp vaxin đó như thế nào. Mọi thứ đã sẵn sàng khi họ bước vô phòng để chích, và bước ra với một cái giấy được mấy cô y tá ghi bằng tay tên của loại vaxin.

Quan Đảng mà làm được nhiêu đó thôi, đảm bảo dân Việt Nam chẳng cần phải học chính trị Mác Lê Nin hay tư tưởng Bác Hồ, chẳng cần lý luận, hay cần có ban tuyên giáo nào hối thúc, cũng sẽ ào ào học làm theo Đảng.

Còn mấy ông không làm được, mấy ông nhắm xin qua Đài Loan, năn nỉ Bà Thái Anh Văn cho mấy ổng qua đó xách dép cho Bà, hên ra thì Bà chấp nhận, không hên thì Bà đuổi về vì làm dơ giày dép của Bà…

Quan Đảng đừng có trách dân sao không có niềm tin vào Đảng, vào các quan Đảng…

Một lần bất tín, vạn lần bất tin” – Chắc Bác Hồ quên không dạy các quan Đảng điều này chăng?

Mà Đảng thì … bất tín với dân đã không biết bao nhiêu lần, bất tín từ khi Đảng ra đời, đến tận ngày hôm nay…

Nhắn quan Đảng, nhắn anh Nên…

Muốn moi được tiền của dân để “lấy sức dân mà nuôi dân” tiếp, quan Đảng ở Sài Gòn nên ráng mà noi gương theo dân đi nhen…

Để ông Hồ lại cho dân miệt ngoải noi gương là đủ rồi…

Tác Giả: Từ Liên.

Sài Gòn, Con Rối? Con Rơi? Hay Con Gà Đẻ Trứng Vàng của Đảng? Tác Giả: Từ Liên.

Người Sài Gòn, người Miền Nam, gần 50 chục năm rồi nhen. Làm con rơi, làm con hoang, làm con gà đẻ trứng vàng rồi, rồi chừng nào hết đẻ được thì Đảng mang gà xé ra làm gỏi nhen…

Sau một vài ngày cả Sài Gòn náo động vì những tin tức hỗn loạn không ngừng ập tới, với cả những người dân vẫn còn có thể tự sinh tồn được, lẫn với cả những người dân đã lâm vào tình trạng tuyệt vọng.

Từ ngày 20/8, nhiều người dân đã nhìn thấy những đoàn xe biển đỏ bít bùng chạy rầm rập trong các con đường của thành phố, những hàng rào kẽm gai, những hàng rào kim loại bao quanh các khu dân cư, được dựng lên khắp nơi như muốn chặn tầm mắt người dân khỏi những bí mật của đám quan chức Đảng.

Rồi người ta thấy báo đài ti vi thông báo tin, vị tướng Avatar của thành Hồ là ông Nguyễn Thanh Phong, Phó Bí Thư Thành Ủy nhiệm kỳ 2020-2025, Chủ Tịch UBND TP.HCM, bị điều chuyển công tác ra Hà Nội, làm phó Ban Kinh Tế Trung Ương, vị trí mà hai anh hùng thời đổi mới là Đinh La Thăng và Triệu Tài Vinh đã vinh dự đảm nhiệm. Anh Thăng hiện tại vẫn đang trong tình trạng bị giam giữ điều tra, vì liên quan tới nhiều vụ đại án kinh tế khác nhau, xử mấy năm rồi chưa xong, trong khi anh Vinh trở nên tiếng tăm lừng lẫy nhờ vụ gian lận chấn động cả nước trong kỳ thi Trung học phổ thông quốc gia năm 2018 tại tỉnh Hà Giang… Có lẽ Đảng gọi ảnh ra ngoài đó để chia cho ảnh một chiếc ghế dự bị, trong khi chờ các anh tiền nhiệm được xử xong…

Rồi người ta lại thấy những cán bộ cấp xã, phường tới từng con hẻm thì thầm với người dân rằng từ 00H ngày 23/08/2021, toàn thành phố sẽ bị “siết chặt hơn”, lần siết cổ này có thể dẫn tới cái chết của cả thành phố, nên bà con nào còn khả năng thì bà con đó đi tích trữ lương thực, thực phẩm, thuốc hạ sốt và những nhu yếu phẩm cần thiết… Người dân mà có đưa cho họ coi tin nhắn của UBND Thành phố nhắn trấn an dân, có kèm cả số điện thoại trợ giúp, thì các cán bộ cũng lại cười nửa miệng, nhìn bà con khó hiểu, kiểu như kêu bà con ai tin những tin đó thì ráng ở nhà chờ họ đi, còn ai thấy khó tin thì nên tự biết lo cho mình…

Thế là bất chấp những lệnh cấm, lệnh hạn chế, dân Sài Gòn lại thu gom những nguồn sinh lực, nguồn tài chính cuối cùng còn lại, ào ào chạy ra ngoài đường, chạy đi tìm kiếm sự giúp đỡ, chạy đi mua những gì còn có thể mua được. Viễn cảnh 15 hay 30 ngày sắp tới bị giam cầm bị phong tỏa, cũng là viễn cảnh Thần Chết sẽ ghé thăm nhiều gia đình.

Các nhóm trợ giúp cộng đồng nhận được tin bà con gởi thì cũng bấn loạn, lập tức phải huy động hết lực lượng mà mình có, chạy rầm rập tới các kho bãi, còn bao nhiêu hàng hóa gom được, mang ra chia cho bằng hết, chưa kịp đóng gói xong cũng chia luôn, với suy nghĩ giúp được bao nhiêu người tới giờ giới nghiêm thì giúp. Qua ngày hôm sau, hầu như mọi kho bãi của những nhóm làm cộng đồng đã được dọn trống rỗng, mà tin nhắn người dân cần trợ giúp thì vẫn kêu muốn cháy máy điện thoại…

Bà con cũng kỳ thiệt, UBND thành phố, các cán bộ cấp thành phố, cấp quận đã tuyên bố là “Không để ai đói, không để ai bị bỏ lại phía sau“, họ cũng cho bà con cả chục đầu số điện thoại rồi, mà bà con không để phản động được yên thân lo cho họ và gia đình họ, bà con réo gọi họ cả ngày…

Trong những ván cờ kiểu này, cũng như mọi lần, Đảng bao giờ cũng giành phần thắng …

Ở Sài Gòn, Đảng tung tin sẽ tặng túi an sinh cho người dân [ Mỗi túi giá khoảng 400.000 đồng. Trong đó có 100.000 đồng, 5 ký gạo và một số nhu yếu phẩm ], nhưng lúc một số túi an sinh này được nhỏ giọt ra [ Nhắc lại để Bà con nhớ các túi an sinh này là tiền thuế của bà con đó nhen ], mới phát có một ngày, thì Đảng nhận ra, số người nghèo khổ gấp hàng ngàn, hàng trăm ngàn lần những túi an sinh mà Đảng chuẩn bị. Trong khi chờ đợi chỉ thị này, thông tư kia, Đảng tung ra một vài nguồn tin, đăng khéo léo trên báo lẫn âm thầm gieo rắc tới các khu phố, thế là người dân lại xúm vô tự thu xếp lo cho nhau. Cái này đúng là “Thả con săn sắt mà bắt con cá rô“. Đảng lời to.

Đảng đi guốc trong bụng dân, biết tỏng cái đám phản động làm cộng đồng nó vẫn kiếm chuyện đi vơ vét hàng hóa nơi này nơi kia gom về kho để, chờ lúc nào dân ngáp ngáp, nó lại xắn tay đi cứu trợ, cứ hết đợt cứu trợ này nó lại đi gom hàng chuẩn bị cho đợt cứu trợ khác. Đảng cũng biết tỏng cái đám người Việt sống ở nước ngoài, họ không nỡ bỏ mặc bà con họ đói khổ, tiền vẫn lén lút đổ về các tài khoản trong ngân hàng, các ngân hàng vẫn báo cáo cho Đảng mỗi ngày, nên chỉ cần Đảng khéo léo, đánh trúng tâm lý một chút, thì Đảng sẽ moi được tới đồng tiền cuối cùng của cái đám đó.

Vậy cũng là “Lấy sức dân nuôi sức dân” vậy.

Hiểu dân tới vậy, đi sâu sát vào quần chúng nhân dân tới vậy, thì ai mà hơn nổi Đảng…

Với đợt cứu trợ này của toàn dân, thì bà con lại thoi thóp được chừng một tuần, chục ngày nữa. Tới lúc đó thì Đảng đã nghĩ ra được mưu kế khác rồi… Chỉ cần ngân hàng, cán bộ xóm báo với Đảng là cái đám cứu trợ cộng đồng ấy, kho của tụi nó bắt đầu được tích trữ rồi đó, tài khoản của tụi nó lại đã tăng thêm mấy chục triệu rồi đó, là Đảng lại chơi bài “Mang kẹo ra dụ con nít“, rút cho bằng sạch công sức của cái đám đó. Đảng tưởng đám phản động không biết hả? Họ chỉ không có cái phí khách trơ mắt đứng nhìn dân chết như Đảng thôi. Mà Đảng cũng hiểu, chừng nào mà đám đó cũng có gan làm tới như vậy với dân chúng, thì Đảng mới lo có đối thủ xứng tầm. Còn như kiểu giờ, hở chút dân kêu là phản động nhảy ra ngoài đường lo, thì còn lâu tụi đó mới đấu lại Đảng.

Bữa nay, Đảng lại kêu bồi báo lên nói lập lờ chuyện ngày 23/08/2021, quân đội từ miệt ngoải vào hình như không muốn tham gia phân phối lương thực cho dân Sài Gòn nữa như thông báo trước đó một ngày nữa… Hổng biết có phải sự rộng lớn, hiên ngang của Sài Gòn đã đủ đảm bảo mấy anh từ hang Bắc Pó ở miệt ngoài mới chân ướt chân ráo bước vô hiểu rằng, mấy ảnh mà tham gia phân phối cho dân Sài Gòn, thì dân sẽ chờ tới chết đói mấy ảnh cũng chưa tìm ra đường mà tới nhà dân. Tới lúc đó, Bình Hưng Hòa xác phải chất ngang với gò Đống Đa chất xác giặc Tàu ngày xưa, không biết lúc đó quân đội có gánh nổi trách nhiệm không vậy ta?

Phân phối thực phẩm cho dân, chắc chắn là chỗ kiếm ăn không tồi, thậm chí là chỗ kiếm ăn dễ dàng và ngon lành nhất trong mùa này ở Sài Gòn. Nếu như quân đội mà đành chịu lùi lại, thì dân đoán hẳn là bên trong còn có nhiều lý do vô cùng ly kỳ bí hiểm khác mà Đảng chưa tiện xì ra với dân… Dân người ta vậy mà ghê lắm, đang đói khổ dịch bệnh mà người ta vẫn xì xầm chuyện bà “Phó tổng thống Mỹ Kamala Harris đã lên máy bay để tới Singapore, bắt đầu chuyến thăm Singapore và Việt Nam từ ngày 22/8 đến 26/8“, thời điểm này lại sắp tới ngày 2/9 nữa, chắc có đám phản động nào đó lại tính làm chuyện mờ ám, phản nghịch với Đảng nên Đảng ra quân diệt trừ bọn đó từ trong trứng nước… Đảng biết Dân Miền Nam vẫn còn thương nhau, nên Đảng phải cho dân từ miệt ngoải vô, khỏi có chuyện tụi bây bắt tay với nhau làm phản Đảng. Tụi bây sợ Đảng chưa?

Mà hổng hiểu sao, dân cái xứ này ít học hành, ít hiểu biết, không có lý luận Mác Lê, mà họ tiên đoán thì như thần…

Ông bà nào sắp lên, nắm cái chức gì, ngồi cái ghế nào, dân người ta tiên đoán cả năm trước khi diễn ra bầu cử. Nghe đồn các nhà tiên tri nổi tiếng trên thế giới cũng không có cửa qua được người Việt…

Cũng không biết còn cái đất nước nào trên địa cầu này mà khi xe quân sự chạy rầm rầm từng đoàn trên đường phố rồi mà người ta vẫn nói với người dân là mọi chuyện hoàn toàn ổn, dân cứ tin vào Đảng, vào bác. Hay là Đảng muốn nhân dịp này làm thịt Sài Gòn thì Đảng nói mịa nó đi cho người ta biết mà người ta chỉ cho Đảng chỗ nào còn thịt để Đảng gặm, chớ dân người ta còn có xương với da thôi, Đảng quen ăn sung mặc sướng rồi, gặm gì nổi thứ đồ bỏ đi đó.

Mà dân Sài Gòn coi bộ cũng quen với sự lươn lẹo của Đảng rồi, nay nói này, mai nói khác, mới đúng là Đảng chớ, nói thẳng nói thật làm sao mà là đảng được… Dân lại tiếp tục tự lo cho mình…

Rồi, chuyện “Lấy sức dân nuôi sức dân” nói bấy nhiêu thôi, giờ nói chuyện Sài Gòn… làm con Rối, làm con Rơi, và làm con Hoang ra sao…

Từ đầu mùa dịch tới giờ, mà nói thiệt là từ hổi nảo hồi nào tới giờ, người dân Sài Gòn nói riêng và dân Nam Kỳ nói chung, chưa bao giờ được coi là những người chủ thiệt sự trên quê hương của mình cả …

Nói chuyện mùa dịch trước. Từ khi Sài Gòn bùng dịch, Đảng liền cử người của Đảng từ ngoải vô giải quyết công chuyện của Sài Gòn…

Đảng nghĩ cái giống dân Sài Gòn chỉ quen ăn bám, đu càng, chỗ nọ chỗ kia, thích ăn ngon mặc đẹp, lý luận thì không có, kinh tế Mác Lê và tư tưởng Bác Hồ đều mù tịt. Móa, vậy tụi bây chống dịch thế nào được…

Muốn dập dịch, phải là người Bắc có lý luận, phải có súng ống của quân đội, xe tăng, xe bọc thép, súng ống, phải có cán bộ dân vận, ban tuyên giáo, phải có bằng lý luận Đảng cao cấp, con virus Vũ Hán nó mới sợ… Bọn Sài Gòn chỉ có bác sĩ, y tá, chuyên gia thì tụi bây chống dịch bằng cái giống gì??? Dân Sài Gòn ngồi yên đó để Đảng lo nhen…

Rồi quan Đảng của quan chức ở ngoài xài máy bay riêng đi ra đi vô Sài Gòn, tiện rước thêm mấy trăm các em ngoài tỉnh này tỉnh kia, ở ngoải đi vô Sài Gòn, hô vang khẩu hiệu “giải phóng Sài Gòn“, mở ra đường mòn Hồ Chí Minh trên không. Mấy vị tướng lãnh, lãnh đạo ở Sài Gòn, đang từ người bình thường, tự nhiên hóa thành Avatar vô hồn, chẳng thể làm gì với cái thành phố vốn được mệnh danh “là đầu tầu kinh tế lớn nhất cả nước“, y như bác Giáp “Ngày xưa đại tướng cầm quân. Ngày nay đại tướng cầm quần chị em“. Họ ngồi đó giương mắt nhìn đám người có lý luận mang triết học Mác Lê với tư tưởng Bác Hồ đi dập dịch ở Sài Gòn…

Vậy có phải Lãnh đạo Sài Gòn là con Rối của Đảng…, Đảng điều khiển sao, nó nghe làm vậy không ta?

Cũng trong mùa dịch, Sài Gòn đóng góp cho quỹ phòng chống dịch Covid lớn nhất cả nước. Vnexpress.net tổng kết hồi đầu tháng 6/2021, “Số tiền, hiện vật tiếp nhận ủng hộ được đạt trên 1.591 tỷ đồng. Trong đó, TP.HCM tiếp nhận gần 1.578 tỷ đồng; Hà Nội 11,7 tỷ đồng; Bình Dương 32 tỷ đồng; Bình Định trên 9,3 tỷ đồng; Bình Phước 4,6 tỷ đồng; Bắc Ninh 50 tỷ đồng; Ninh Bình 9,1 tỷ đồng; Tây Ninh hơn 3,3 tỷ; Hà Nam hơn 1 tỷ đồng; Đồng Tháp 388 triệu đồng; Phú Yên 321 triệu đồng” [ https://vnexpress.net/hon-3-500-ty-dong-ung-ho-phong-chong-covid-19-4288496.html ].

Có ngày, Sài Gòn quyên góp được 21 tỷ, gần gấp đôi con số của Hà Nội đóng góp ở trên: “Sáng ngày 16/6, Ban vận động, tiếp nhận và phân phối Quỹ Phòng, chống dịch Covid-19 TP.HCM tổ chức tiếp nhận ủng hộ… 57 cá nhân, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn tại TP.HCM đăng ký ủng hộ giá trị bằng tiền và hàng hóa, trang thiết bị y tế trị giá hơn 21 tỷ đồng” [ http://mattran.org.vn/hoat-dong-mat-tran-dia-phuong/ngay-166-thanh-pho-ho-chi-minh-tiep-nhan-so-tien-ung-ho-tren-21-ty-dong-tu-57-to-chuc-ca-nhan-38193.html ].

Ngược tại, tất cả những nguồn lực hỗ trợ phân bố cho Sài Gòn trong suốt thời gian dịch Covid diễn ra thì rất thiếu tương xứng, từ vắc xin cho tới những trợ giúp dành cho dân chúng. Chính quyền Sài Gòn nhiều lần đã phải lên kêu gọi chính phủ nhả bớt tiền cho Sài Gòn để Sài Gòn còn có sức mà chống dịch:

Ngày 28/06/2021. Phó Chủ tịch UBND TP.HCM Dương Anh Đức gởi văn bản khẩn gửi Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam và Bộ Tài Chính về việc xin giữ lại tiền ủng hộ mà TP.HCM đã thu được, để phòng chống dịch để mua vắc xin cho dân của mình. Đơn có trình bày Sài Gòn là nơi tập trung đông dân cư và cũng là một trong những địa phương chịu nhiều ảnh hưởng của dịch Covid-19 [ https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/tp-hcm-xin-giu-lai-tien-ung-ho-phong-chong-dich-de-mua-vaccine-750973.html ].

Ngày 29/06/2021, UBND Thành Hồ lại tha thiết kêu gọi Trung Ương ban ơn mưa móc “TP.HCM kiến nghị không chuyển kinh phí ủng hộ phòng chống Covid-19 vào ngân sách nhà nước, vì dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn đang phức tạp, khó lường nên cần tập trung nguồn lực cho công tác phòng chống dịch của thành phố” [ https://thanhnien.vn/thoi-su/tphcm-kien-nghi-khong-chuyen-kinh-phi-ung-ho-phong-chong-covid-19-vao-ngan-sach-nha-nuoc-1405616.html ].

Sau khi kêu gào rỉ rả suốt mấy tháng mà không được Đảng hồi đáp thì… thành phố đầu tàu tiếp tục gởi công văn… kêu gào thảm thiết…

Ngày 19/08/2021, “UBND TP.HCM vừa có văn bản kiến nghị gửi Thủ Tướng Chính Phủ, Bộ Tài Chính và Bộ Lao Động – Thương Binh và Xã Hội về việc hỗ trợ khẩn cấp 28.000 tỉ đồng và 142.200 tấn gạo để hỗ trợ cho người nghèo tại TP.HCM gặp khó khăn do đại dịch COVID-19” [ https://tuoitre.vn/tphcm-kien-nghi-chinh-phu-ho-tro-28000-ti-dong-can-ho-tro-tphcm-luc-kho-khan-20210819081235264.htm ].

Rồi trong khoảng mấy tuần nay, người dân đã tìm được ở đầu tàu kinh tế lớn nhất cả nước, những thanh niên, những người vô gia cư, những bà mẹ ôm con đi bới thùng rác sau giờ giới nghiêm… Dân chụp hình đưa lên báo, báo cho phóng viên báo này báo nọ, cuối cùng, cũng chỉ để các nhóm hoạt động cộng đồng biết chỗ mà kiếm họ, mà giúp đỡ họ chút gì đó để họ sống qua ngày…

Đó, Sài Gòn là đầu tàu kinh tế của cả nước, nhưng Sài Gòn cũng là Con Rơi của Đảng… Nói vậy có gì sai không ta?

Con Rơi của Đảng, con Hoang của Đảng, nhưng Đảng không bao giờ chịu buông tha đứa con đó, không bao giờ chịu thảy nó cho ai nuôi, không bao giờ chịu buông tay nó ra cho nó sống tự lập, tự trưởng thành. Vì sao? Vì đứa con đó không phải chỉ là con Rơi, là đứa con Hoang tàn tật hay vô dụng, mà còn là Con Gà Đẻ Trứng Vàng của Đảng… Nếu thiếu nó, Đảng e rằng chỉ sống được trong cảnh bần hàn, khó có những đại lộ thênh thang bao phủ khắp các nông thôn miền Bắc, khó có những công trình hoành tráng hiện diện ở Hà Nội, và ở toàn vùng miệt ngoài, để cho Đảng vênh mặt lên mà tự hào “Đảng vinh quanh, vẻ vang, xây dựng đất nước giàu mạnh, đẹp đẽ“, khó mà có đường sắt Cát Linh, Hà Đông, mười mấy năm chưa xong…, 13 km, giá 868 triệu USD…

Cuối tháng 5/2021, khi dịch bắt đầu bùng ở Sài Gòn, Đảng gào lên, “Cần hơn 330 nghìn tỷ đồng cho hạ tầng giao thông Hà Nội 5 năm tới” [ https://thanhnien.vn/tai-chinh-kinh-doanh/hang-ti-usd-do-vao-ha-tang-phia-nam-giao-thong-van-khat-von-1299058.html ].

Trong khi, cuối năm 2020, Sài Gòn và Miền Nam được biết rằng, có rất ít cơ hội để phát triển cơ sở hạ tầng giao thông của họ. “Theo số liệu từ Bộ GTVT, tổng nhu cầu vốn cho đầu tư hạ tầng giao thông Việt Nam giai đoạn 2016-2020 gần 1 triệu tỉ đồng nhưng mới đáp ứng được gần 210.000 tỉ đồng. Riêng khu vực TP.HCM – địa phương được coi là trung tâm kết nối, trung tâm kinh tế của toàn vùng – nhu cầu vốn cho việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông giai đoạn này là khoảng 500.000 tỉ đồng nhưng chỉ cân đối được hơn 1/5, tức 122.000 tỉ đồng“. Con số này, một lần nữa, chỉ bằng khoảng một nửa yêu cầu của Hà Nội ở trên [ https://thanhnien.vn/tai-chinh-kinh-doanh/hang-ti-usd-do-vao-ha-tang-phia-nam-giao-thong-van-khat-von-1299058.html ].

Vậy Sài Gòn đóng góp cho cả nước bao nhiêu?

18/05/2021, Báo vneconomy.vn, có đăng bài “Ngân sách cho TP.HCM: Ngược đời bội thu và bội chi“. Bài báo cho biết, sau khi chính quyền Sài Gòn kêu gọi Trung Ương tăng thêm cho Sài Gòn 5% ngân sách giữ lại để phát triển thành phố [ từ mức 18% như lâu nay lên 23% ]… Bên cạnh luồng ý kiến ủng hộ, có không ít người cho rằng, tỷ lệ 23% là “quá cao bởi thành phố này đang được hưởng nhiều khoản thu khác, đáng lý không thuộc về mình???” [ https://vneconomy.vn/ngan-sach-cho-tp-hcm-nguoc-doi-boi-thu-va-boi-chi.htm ]. Bà con thấy Đảng và bè lũ của Đảng tốt ghê không bà con? Đảng thấy Đảng và bè lũ của Đảng đối với đứa con Hoang Sài Gòn nhân ái ghê không bà con?

Tác giả chỉ ra cụ thể như sau, xin trích nguyên văn:

Theo Luật Ngân sách Nhà Nước 2015 và Khoản 1 và 2 Điều 13 và Điều 15 Nghị định 163/2016/NĐ-CP ngày 21/12/2016 về Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Ngân Sách nhà nước, nguồn thu ngân sách nhà nước tại bất cứ địa phương nào cũng có 3 nhóm: nhóm thu hộ cho trung ương ( tạm gọi nhóm 1 ); nhóm thu bao nhiêu hưởng bấy nhiêu ( nhóm 2 ) và nhóm thu rồi ăn chia với trung ương ( nhóm 3 )“.

Dựa vào các quy định trên, ở nhóm 1, TP.HCM thu đồng nào, nộp đồng đó về cho trung ương. Ví dụ: doanh nghiệp A ở Hải Phòng nhập khẩu một lô máy móc qua Cửa Khẩu Tân Sơn Nhất, số thuế phải nộp là 1 tỷ đồng thì 1 tỷ đó, TP.HCM phải nộp cả về trung ương mà không được giữ lại một đồng nào.

Nhóm 2: thu đồng nào hưởng đồng đó, ví dụ các khoản thu lệ phí môn bài, trước bạ, tiền sử dụng đất…; năm 2019, tổng thu ngân sách TP.HCM là 411.202 tỷ đồng thì nhóm 2 thu được 43.302 tỷ đồng ( 10,5%/tổng thu ).

Nhóm 3: giữ lại 18%, trả về trung ương 82%. Nhóm này gồm 5 nhóm thuế: VAT, thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt ( không tính thuế tiêu thụ đặc biệt từ hàng nhập khẩu ); thuế bảo vệ môi trường ( không tính thuế bảo vệ môi trường từ hàng hoá nhập khẩu )…

Ví dụ: năm 2020, TP.HCM thu được 103 nghìn tỷ thuế thu nhập doanh nghiệp, phải nộp về trung ương 85 nghìn tỷ và giữ lại trên 18 nghìn tỷ.

Theo số liệu TP.HCM công bố, người viết tính toán rằng: năm 2020, tổng thu ngân sách tại địa phương này là 411.202 tỷ đồng nhưng chỉ được giữ lại 77.952 tỷ đồng khoản thu nhóm 2 và 3, chiếm 19%.

Mới đây, TP.HCM có đề xuất trung ương xin được giữ lại từ 23%-33% ngân sách, ý là nói đến số thu nhóm ( 3 ) thôi, chứ không phải tổng thu ngân sách.

Trong khi đó, đóng góp và phân bổ ngân sách của những tỉnh thành khác là như sau:

Theo Nghị Quyết 129/2020/QH14 về phân bổ ngân sách trung ương năm 2021, 16 địa phương có tỷ lệ điều tiết giữ lại là TP.HCM ( 18% ), Hà Nội ( 35% ), Bình Dương ( 36% ), Đồng Nai ( 47% ), Vĩnh Phúc ( 53% ), Bà Rịa-Vũng Tàu ( 64% ), Quảng Ninh ( 65% ), Đà Nẵng ( 68% ), Khánh Hoà ( 72% ), Hải Phòng ( 78% ), Bắc Ninh ( 83% ), Quảng Ngãi ( 88% ), Quảng Nam ( 90% ), Cần Thơ ( 91% ), Hưng Yên ( 93% ), Hải Dương ( 98% ). Các tỉnh còn lại là 100%“. Xin xem biểu đồ trong phần hình ảnh minh họa…

Vậy Sài Gòn có phải Con Gà Đẻ Trứng Vàng của Đảng không?

Không có cái 82% kia của Sài Gòn đóng cho ngân sách Trung Ương, thử hỏi tỉnh thành nào còn xây được tượng đài vài trăm tỉ? Xây được những văn phòng ủy ban nguy nga tráng lệ, các công sở nhà nước thi nhau mua những loại xe xịn nhất cho cán bộ Đảng chạy đi đánh golf, đi xem đất, đưa hàng đoàn hàng chục hàng trăm cán bộ đi nước ngoài “hội thảo“, “học hỏi kinh nghiệm” mỗi năm, tốn từ vài chục đến hàng trăm tỉ đồng …

Chưa kể nếu không có cái vựa lúa “Đồng bằng sông Cửu Long” thì Đảng lấy gì mà tặng Lào với Cuba? lấy gì mà xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới, làm gì mà có những loại gạo như ST24, ST25 mà mang ra đấu trường quốc tế?

Miền Nam trù phú quá, Sài Gòn giỏi quá, năng động quá, giàu có quá, rộng lượng quá, nên Đảng giải phóng từ hồi 1975 tới giờ vẫn chưa giải phóng xong, cướp bóc liên tục từ năm 1975 tới giờ chưa một ngày ngừng nghỉ, mà vẫn chưa hết đồ để Đảng cướp …

Người Sài Gòn, người Miền Nam, gần 50 chục năm rồi nhen. Làm con rơi, làm con hoang, làm con gà đẻ trứng vàng rồi, rồi chừng nào hết đẻ được thì Đảng mang gà xé ra làm gỏi nhen …

Bữa nay, lại nghe thêm nhiều đoàn quân y, hậu cần ở ngoải tiếp tục đổ vô Sài Gòn rồi đó nhen bà con. Bà con nhớ đối với mấy ảnh tốt một chút nhen, dù mấy ảnh có làm nư cỡ mấy thì mấy ảnh cũng là những kẻ đang xài tiền của bà con thôi mà, tiền thuế của Sài Gòn thôi mà, chớ ở đâu ra, nên bà con có nghèo khổ mấy, thì bà con cũng vẫn là người ở “trên cơ” mấy ảnh rồi nhen bà con…

Nhưng chừng nào mà mấy ảnh mà kêu gọi “Bà con đoàn kết Bắc Nam một nhà, hòa giải dân tộc, công bằng, tự do“. Bà con nhớ kêu “Tụi Mầy trả lại tiền thuế ngân sách cho Sài Gòn đi, tụi bây bớt trứng gà vàng mà Sài Gòn đẻ ra cho Sài Gòn đi“, rồi tự nhiên có hòa giải với đoàn kết…

Nói thì thì nói, mình chi tiền nuôi họ để họ vô họ giúp mình thì cũng được, nhưng để họ dạy lại mình về tình đoàn kết, về sự công tâm sáng suốt của Đảng thì không được nhen bà con…

Cầu chúc bà con đi qua mùa dịch bình yên…

Yêu Sài Gòn nhiều lắm,… Đời người hổng biết có bao nhiêu mà trải qua biết bao nhiêu kiếp sống, vẫn chưa có kiếp nào được làm người.

Sống vậy có uổng lắm không Bà con?

Tác Giả: Từ Liên.

“Lấy sức dân nuôi sức dân” hay “Lấy mỡ Cá rán Cá”. Tác Giả: Từ Liên.


Không hiểu sao cái nhà nước này nó vẫn cứ tồn tại nhỉ, trăm triệu dân mà cứ như trăm triệu cái hồn ma dật dờ vậy, kể cả khi ao hồ nhà họ cạn kiệt thì họ cũng cam tâm ngồi chờ chết.

Thành ngữ xưa có một câu “Lấy mỡ cá rán cá” [ Động từ “Rán” ở miền Bắc có nghĩa tương đồng với động từ “Chiên” trong miền Nam ]. Lấy mỡ cá rán cá, theo nghĩa đen là người ta dùng mỡ của động vật để chiên thịt của chúng, khi chúng ta nấu ăn, theo nghĩa bóng nó hàm ý là dùng chính quân của ai đó [ Bạn bè, thân hữu ] làm hại người đó…

Trong thời chiến, triển khai chiến lược này có nghĩa là một bên sẽ dùng những biện pháp khôn khéo làm sao để chính người của bên đối thủ sẽ tham gia hủy diệt đối thủ, họ sẽ giữ thế đắc lợi cả đôi bên, họ vừa không phải chịu trách nhiệm về sự lộn xộn trong hàng ngũ ở bên kia, họ cũng không phải chịu trách nhiệm về sự bại trận của bên đối thủ. Thực hành kế này, nếu đối thủ của họ đại diện cho bên chính nghĩa, khi bị phản đối vì tấn công chính nghĩa, họ sẽ nói “Tự tụi nó giết nhau mà, liên can gì tới tôi đâu“, “Cành đậu nấu hạt đậu thôi mà, tại tụi nó mất đoàn kết nên mới tự đưa mình vào chỗ chết“. Nếu như họ là bên thắng cuộc, họ sẽ giành hết công trạng về mình, ỉm luôn cái vụ họ đã chọc gậy bánh xe ra sao.

Dụng kế này, đằng nào họ cũng được cả đôi bề, thắng hay thua cũng không ai nói gì họ được.

Trong thời chiến tranh Việt Nam, khi hai miền Nam-Bắc trở thành đối thủ của nhau, người Bắc Cộng dưới sự giúp sức của Tàu cộng và Nga Sô cũng đã sử dụng kế này, họ chiêu mộ một đội ngũ không nhỏ các cán bộ miền Nam mang ra ngoài Bắc tập kết, rồi cử những người này quay trở lại miền Nam để đánh phá miền Nam từ bên trong. Tuy ý đồ của họ là như thế, nhưng bên ngoài, họ nói rằng người Mỹ mới là bên dụng kế này [ mà họ dạy trong sử của họ là “Dùng người Việt đánh người Việt” ]. Khi bị thế giới lên án chiếm miền Nam Việt Nam, họ nói “Là người của tụi nó hủy hoại tụi nó từ bên trong mà”. Còn thì họ dạy dân của họ thì họ nói “Nhờ sự lãnh đạo tài tình sáng suốt của Đảng, chúng ta đã chiến thắng rực rỡ cái bọn Nam Kỳ theo tư bản bán nước đó“.

Cứ thử đọc sử của họ, thì người ta đồ rằng Việt cộng ngoài mặt nói cán bộ tập kết có công giúp Việt cộng đánh bại miền Nam, nhưng trong thâm tâm họ, họ cũng không mấy coi trọng những người vì họ mà quay lưng lại với quê hương mình. Họ có thể ác, có thể lươn lẹo, nhưng hình như họ cũng biết cảnh giác trước những người “hai lòng” dữ lắm. Bà Thái Hậu Dương Vân Nga, thường được sử chính thống ca ngợi về hành động nhường ngôi cho Lê Hoàn sau khi chồng chết, lập ra triều Tiền Lê, vậy mà dân còn làm tượng bà, mặt bị bôi màu đỏ [ tượng trưng cho sự xấu hổ ], quay mặt về phía đền vua Đinh Tiên Hoàng mà tạ lỗi với Ngài. Người ta nói bà nên biết xấu hổ vì bà không giữ lòng trung với chồng bà. Phải như Bà Trưng, Bà Triệu, dân người ta mới ưng cái bụng, mới chịu lập đền thờ phụng.

Đền đó giờ vẫn còn ở Ninh Bình, dân cũng chỉ đến đình vua Đinh để dâng hương, dù Lê Hoàn cũng làm vua, cũng có công đánh giặc Tống, cũng có đền thờ, nhưng người ta không mấy đoái hoài, có thời còn để cỏ mọc um tùm, chỉ có chính quyền là phải chăm. Tới dân thường mà người ta còn biết coi khinh người ăn ở hai lòng, nói gì những kẻ mưu sâu kế hiểm, biết bày binh chiến lược, lại có thể đánh giá cao những kẻ phản bội được sao?

Nay thời bệnh dịch, sau gần 3 tháng vừa giãn cách, vừa phong tỏa, nhiều cơ sở sản xuất, thương mại phá sản, giao thông ách tắc dưới sức ép của những mệnh lệnh hành chính, hàng hóa chỗ dư chỗ thừa, đổ bỏ, chỗ không thể mua được, bệnh viện, cơ sở y tế quá tải, người chết không thể đem đi chôn, mà cũng không có chỗ thiêu, người dân muốn thiêu xác người thân, phải nhờ tài xế “chở lén” về lò thiêu tư nhân ở quê.

Mấy hôm nay, báo chí đưa tin bắt được tài xế ở Bến Tre, chở 41 xác, là những người bị chết do Covid, từ Sài gòn về, bằng một xe tải [ không phải xe có máy làm lạnh ], về Bến Tre hỏa táng, cho biết, tính cho tới khi bắt được, thì tài xế đã chở trót lọt mấy chuyến “hàng” rồi, suy ra thì số xác được đem về có tới hàng trăm [ https://tuoitre.vn/vu-cho-41-thi-the-mac-covid-19-tu-tp-hcm-ban-dau-xac-dinh-thi-the-lay-tu-cac-nha-don-20210817074229764.htm ].

Vậy mà nhiều người Việt Nam cứ nghĩ câu chuyện “39 người Việt chết trong xe container đông lạnh” chỉ xảy ra bên Anh thôi chớ, giờ thì ở ngay miền Nam Việt Nam, nơi tập trung những nền kinh tế lớn nhất cả nước, cũng như nơi có vựa lúa lớn nhất của cả nước, nơi không có cư dân nào nằm trong số 39 cái thi thể bất hạnh kia, thì giờ cũng phải chất người của mình vào trong xe tải như chất động vật chết để mang về vùng quê hỏa táng, đỡ phải chịu cái cảnh chờ đợi tới sình thúi ra ở trước cửa Bình Hưng Hòa. Cứ cái đà này thì chẳng mấy chốc thần dân xứ Đông Lào có nguy cơ tiến hóa lùi thành loài khỉ trở lại. Chẳng cần kẻ thù nào phá hoại từ bên ngoài, hay đe dọa biến Việt Nam thành thời kỳ đồ đá thì tự tà quyền của họ cũng đã đủ sức tiến hành cuộc cách mạng tiến hóa ngược rồi.

Còn đang lo âu về quá trình Pắc Pó hóa diễn ra có phần nhanh quá, dân Đông Lào, vào lúc sức dân đã kiệt, niềm tin đã cạn, hy vọng đã tàn, thì họ lại thêm một phen hoảng loạn khi nghe tà quyền cộng sản phát động phong trào nghe tên rất là cao thượng “Lấy sức dân nuôi sức dân“.

Mà đây không phải là lần đầu tiên họ làm như vậy, màn kịch này được Bộ Chính trị, Ban tuyên giáo Việt cộng diễn trong suốt nhiều năm, ở nhiều nơi khác nhau trên đất nước này, nhưng hình như chưa có lần nào nó lại trở nên lộ liễu, thô bỉ như lần này, cái thời điểm mà những con cá to, bình thường được ăn uống đầy đủ, có dư mỡ để rán chính nó, thì nay ngư phủ đảng đánh bắt nó xong, mổ nó ra, bao tử của nó còn rỗng tới độ khỏi phải làm sạch lại, cũng nấu ăn được liền, ngoài da ra thì cá chỉ còn xương, lấy mỡ đâu cho ngư phủ đảng chiên với chả rán. Vậy mà đảng lại kêu, cá ít mỡ, chiên giòn lên, càng ngon, không có mỡ để chiên được, thì mang ra nướng, cũng thành đặc sản.

Chỉ còn thiếu nước đảng tuyên bố thẳng là Giờ là thời hạn hán, ao hồ khô cạn hết đồ ăn, ông nhốt chung cá lớn với cá bé, theo quy luật sinh tồn, cá nào sống được thì ông để đó ăn sau, cá nào chết thì ráng chịu nó, cá lớn đói thì cứ ăn cá nhỏ mà sống, vậy nha …

Mà lạ hơn nữa là trên toàn cõi này, dân cư coi bộ đông đúc dữ vậy, mà chỉ có chừng một nhúm nhỏ phản động các thể loại, ngồi tự hỏi nhau: Không hiểu sao cái nhà nước này nó vẫn cứ tồn tại nhỉ, trăm triệu dân mà cứ như trăm triệu cái hồn ma dật dờ vậy, kể cả khi ao hồ nhà họ cạn kiệt thì họ cũng cam tâm ngồi chờ chết.

Cái khả năng sinh tồn, tinh thần dũng cảm, và sức sáng tạo dồi dào, mà từ ngày xưa đã giúp họ tồn tại hiên ngang trước mũi giặc Tàu qua một ngàn năm, giờ đã hoàn toàn bị hủy diệt rồi hay sao ấy.

Lúc này có phản động nhớ ra, ngài Nelson Mandela ( 1918-2013 ), nhà hoạt động nhân quyền, và cựu tổng thống Nam Phi ( 1994-1999 ), có câu nói nổi tiếng, được khắc ở trước cổng trường đại học Nam Phi:

Để phá hủy bất kỳ quốc gia nào, không cần phải sử dụng đến bom nguyên tử hoặc tên lửa tầm xa. Chỉ cần hạ thấp chất lượng giáo dục và cho phép gian lận trong các kỳ thi của sinh viên“.

Created with GIMP
  • Bệnh nhân chết dưới bàn tay của các bác sĩ của nền giáo dục đấy.
  • Các tòa nhà sụp đổ dưới bàn tay của các kỹ sư của nền giáo dục đấy.
  • Tiền bị mất trong tay của các nhà kinh tế và kế toán của nền giáo dục đấy.
  • Nhân loại chết dưới bàn tay của các học giả tôn giáo của nền giáo dục đấy.
  • Công lý bị mất trong tay các thẩm phán của nền giáo dục đấy. Sự sụp đổ của giáo dục là sự sụp đổ của một quốc gia.”

Oh, những lời này nghe thiệt là quen ở xứ này, ngày nào mà mở báo ra là người ta cũng được nghe các bản tin, trong đó, các quan đảng “báo cáo, cập nhật” tình hình hàng ngày, chỗ này thiếu trường học, thừa quán nhậu, chỗ kia chung cư sắp sập, chỗ nọ trẻ em tự rớt ra ngoài cửa sổ chung cư chết, các tượng đài hoành tráng chỉ sau một vài cơn mưa bão thì lung lay, bê tông bong tróc ra thảm hại, những con đường mấy chục ngàn tỷ cũng chỉ trong năm đầu sử dụng là đầy ổ trâu, ổ voi. Kế toán, giám đốc tài chính của các ngân hàng phù phép biến mất hàng chục tỉ đồng. Ở chỗ khác nữa người ta nhân danh tôn giáo lừa dân nghèo hàng chục tỉ, các giáo sư tiến sĩ nhiều như muỗi vào mùa mưa, mà giáo dục thì cứ đội sổ trên các bảng xếp hạng của thế giới và khu vực, các quan tòa án thì tay vấy máu đồng loại, xử án chẳng cần đến tang chứng hay vật chứng, chỉ cần ép cung thành công nạn nhân là đủ…

Vậy mà đảng cứ kêu ra rả là các thế lực thù địch ganh tỵ với sự lãnh đạo thông thái, sáng suốt, tài tình của Đảng nên ngày đêm đánh phá đảng. Thật tội nghiệp các thế lực thù địch thiếu hiểu biết, họ mà có lọt qua vòng ngoài mà vào tới vòng trong các quốc gia này, họ hẳn thất vọng lắm, có lục tung mọi cánh rừng, đào hết mọi hầm mỏ lên, tìm đỏ con mắt cũng không thấy cái cái đất nước này nó còn cái gì để cho các thế lực thù địch lợi dụng được.

Nói cho các thế lực phản động nghe nè, từ năm 2012, “Chuyên gia kinh tế” Bùi Văn nói rằng, “Thế hệ của ông đã hút dầu, khai thác hết than, đánh bắt hết cá và đã chặt rừng xuất khẩu sang Nhật nhưng tự hào về điều đó vì đã để lại cho thế hệ trẻ con đường duy nhất là sự học mà không còn dựa vào tài nguyên thiên nhiên” [ https://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/the-he-chung-toi-da-hut-dau-dao-het-than-99763.html ], nhưng mà giờ thì cái sự giáo dục nó cũng chỉ có khả năng đào tạo ra toàn cô hồn [ Theo đúng nghĩa đen luôn, người học không hiểu họ học cái gì, học xong họ không biết xài để làm gì, sống dật dờ cả cuộc đời rồi chờ tới lúc về gặp Bác Hồ ].

Chắc chỉ có các thế lực thù địch bị khùng nặng, lú lẫn, mới nghĩ tới chuyện mang bom nguyên tử tới Việt Nam cho tốn kém, mệt mỏi. Các thế lực thù địch cứ “ai ở đâu ở yên đó”, cứ để mấy ông Việt cộng tự làm việc của họ. Các ông chỉ cần khích lệ, an ủi, đứng bên ngoài khen ngợi các ông ấy thôi, rồi chẳng mấy chốc nữa các ông sẽ có những gì các ông muốn. Sử dụng vũ khí hạt nhân thì các ông có thể bị thế giới kết tội xâm lược nước khác, bị kết tội sử dụng vũ khí hủy diệt hàng loạt, này kia kia nọ, còn để họ tự hủy diệt dân họ bằng các loại thực phẩm độc hại, nguồn nước ô nhiễm [ còn hơn cả mức độ nhiễm xạ của bom nguyên tử ], bằng nền giáo dục xã nghĩa chói lòa, thì chẳng ai làm gì được họ. Yên tâm đi, các ông chỉ cần ngồi đó, làm “ngư ông đắc lợi“.

Có những phản động thì lại thắc mắc: Không thấy anh chị đại biểu quốc hội được dân bầu ra để lo cho dân lúc này đi đâu hết rồi ta? Cứ làm như dịch bệnh đã tiễn đưa hết toàn bộ các anh chị về với Bác Hồ rồi vậy.

Từ đầu mùa dịch tới giờ, chỉ thấy mấy ông bà đại biểu ăn mặc đẹp, nhộn nhịp ra vô lăng Bác Hồ lạy cái hồn ma trong đó, rồi đi vô hội trường Ba Đình, đóng kín cửa, hội họp vui vẻ, cười nói rổn rảng trong đó, trong khi dân ở ngoài thì chết dở sống dở. Mấy ông bà làm đại biểu cái kiểu gì vậy trời? Chắc mấy ông bà thờ cái hồn ma ở Ba Đình lâu quá rồi nên mấy ông bà cũng dần dần bị nó ám, hóa ra không phải người nữa hay sao đó.

Mà phản động cũng hỏi nhau, mấy ông bà kêu mấy ông bà theo học thuyết Mác vô thần, không tin tưởng vào thần linh nào cả. Có hồi, mấy ông bà kêu dân chúng phải đập đền chùa, nhà thờ, ném tượng Thần Phật, tượng Chúa xuống ao, khiến hàng chục triệu dân rơi nước mắt bất lực. Rồi mấy ông bà lại rinh cái xác của Kẻ mà ai cũng biết là ai đó [ Tên nhân vật nổi tiếng trong Tà phái của truyện Harry Porter ], vô lăng thờ như thần tối cao, khói nhang nghi ngút, cắt cử hẳn một binh đoàn Lăng canh cái xác vô dụng đó, tốn biết bao nhiêu tiền thuế của dân để bảo quản cái xác với trả tiền cho lính canh? Mấy ông bà còn coi trọng cái người chết hơn là người sống. Trước khi đi đâu, mấy ông bà ghé qua đó lạy xác, đi về, lại cũng qua đó lạy xác, vậy mấy ông bà là cái giống vô thần chỗ nào vậy? Tới quỷ sứ cũng chào thua các ông bà.

Mấy ông bà bày đặt có văn hóa, dạy dân sống văn minh, người chết không để quá 24 tiếng trong nhà, phải đem chôn, rồi mấy ông bà rước cái xác đã chết hơn nửa thế kỷ rồi vô đó, rồi ngày ngày ra vô ngắm nghía tự sướng với nhau, vậy mấy ông bà văn minh ở cái chỗ nào vậy? Thử hỏi cái nước văn minh nào giờ này còn đi thờ xác ướp không?

Các ông bà hết lời chửi rủa vua quan phong kiến hút máu dân, bắt dân xây lăng mộ, mà vua quan Việt Nam ghê gớm lắm thì cũng chỉ mới được chôn thôi, mà các ngài cũng được chôn ở những nơi thâm sâu cùng cốc, đồi núi bao quanh, để các ngài ngủ yên, còn các ông bà thì hô hào lật đổ phong kiến, rồi các ông bà cho xây cái lăng to và kiên cố hơn, nằm chình ình giữa chỗ mà các ông bà kêu bằng “trái tim cả nước”. Thế vẫn còn chưa đủ, các ông bà còn tạo ra một xác ướp ngớ ngẩn, vô năng, rồi các ông bà bỏ vô đó, nuôi như người Thái nuôi hồn ma Kuman Thong, các ông bà quỳ sụp lạy, xin hồn ma cho các ông bằng thăng quan tiến chức, mọc vòi mọc móng cho dài, cho sắc nhọn mà hút máu dân, rồi mời người ta lên đồng lên cốt để nghe hồn ma báo mộng cho ông bà.

Dựng nước trong mấy ngàn năm bằng sức của dân mình, rồi tự dưng cái đảng ra đời, dắt díu cả con dân cái nước này đi theo tiếng gọi của hồn ma, vậy làm sao kêu con dân nước này biến thành người được. Nó chưa hóa hết ra ma, ra quỷ, ra cô hồn, là hên lắm rồi.

Chắc mấy ông bà vẫn còn kiếm ăn được ở cái xác đó nên ông bà vẫn để đó, hù thiên hạ. Mấy vị nguyên thủ quốc gia từ bên mấy tư bổn qua thăm quốc gia, mấy ông quan Đảng ép họ vô đó thăm xác ướp. Họ phải làm theo nghi lễ thôi, chớ chắc họ cũng chết khiếp.

Mà suy đi nghĩ lại, thì cũng chỉ có ma mới làm được mấy cái chuyện hết sức kỳ cục trên cái đất nước này.

Theo những nguồn tin của báo lề phải, báo chính thống đăng, [ tôi chưa có cần xài báo chí phản động nha ]. Thì những thông tin về Việt Nam là hết sức tích cực. Ví dụ như:

Thứ nhất, tiền mua vaxin chích cho toàn dân của đảng là không có thiếu, đảng tính toán chỉ cần 25,000 tỷ [ Hai lăm ngàn tỉ ] là đủ sức chích cho toàn dân rồi. Cái này chẳng ăn thua gì với đảng, đảng có tiền rồi, mà người dân khắp cả nước cũng đã góp tiền vào quỹ mua vaxin cả chục ngàn tỉ rồi, đảng đem tiền đó vô gởi ngân hàng lấy lời. Đảng chưa mua vaxin được là vì đảng vẫn đang thấy còn kiếm chác ở cơ chế covax được, đảng vẫn “đi đêm” với các hãng dược bên Tàu, nên đảng vẫn nhàn nhã ngồi tô vẽ công lao của đảng trong công tác phòng chống dịch, người của đảng đã lỡ tuyên bố “Dù con virus này ở đâu có đáng sợ, nhưng mà với Việt Nam ta, chắc chắn là nó không làm gì được“, rồi “Dập dịch trong mười ngày“, rồi “Cột điện bên Mỹ mà có chân nó cũng muốn về Việt Nam“, rồi “Toàn thế giới ấn tượng trước thành tích dập dịch ở Việt Nam“… , nên đảng phải tỏ ra điều thế giới ai sợ covid chứ covid thì sợ Đảng, [ Ai muốn kiểm tra thì cứ Google mấy từ này, nó sẽ ra đủ thông tin ]. Vậy mà kêu Đảng là ma quỷ, nên covid mới không sợ, Đảng lại chửi người ta nói bậy.

Thứ hai, báo chí tà quyền đưa những tin tức rất lạc quan, “Bất chấp dịch bệnh, GDP sáu tháng đầu năm tăng 5,64%” [ https://tuoitre.vn/bat-chap-dich-benh-gdp-6-thang-dau-nam-tang-5-64-202106291025292.htm ]. Thành phố HCM: Thu ngân sách 6 tháng đầu năm đạt 198 nghìn tỷ, tăng 21% so với cùng kỳ, Với kết quả trên, TP. HCM tiếp tục dẫn đầu cả nước về thu ngân sách trong 6 tháng đầu năm 2021. Đứng ở vị trí thứ hai là thủ đô Hà Nội, tổng thu ngân sách trên địa bàn 6 tháng đầu năm ước đạt trên 124,854 tỷ đồng, bằng 107,1% so với cùng kỳ. [ https://vietnamfinance.vn/tp-hcm-thu-ngan-sach-6-thang-dau-nam-dat-198-nghin-ty-tang-21-so-voi-cung-ky-20180504224255569.htm ]. Vậy là Việt Nam vẫn lớn mạnh, hùng cường. Chỉ có điều là không hiểu sao dân chúng tứ xứ lại vẫn tháo chạy tán loạn khỏi những cái thành phố đầu tàu giàu có nứt tường đổ vách như thế này, chắc là dân chúng họ bị khùng, chớ không phải là chính quyền gian dối, ác ôn, ăn cho no cơm mà không chịu nhả ra chút cháo cho dân người ta cầm hơi. Hay là ma quỷ đột nhập vào các máy tính có lưu dữ liệu của đảng, làm quá mức số tiền lên, hoặc phù phép cho số tiền đó bay đi đâu hết rồi? Nói vậy Đảng càng không chịu. Đảng nói Đảng không tin ma quỷ.

Thứ ba là, theo báo cáo của Chính phủ, tính đến hết năm 2020, tổng số kết dư quỹ BHXH, bảo hiểm thất nghiệp ( BHTN ) ước đạt hơn 935,000 tỉ đồng. Trong đó, các quỹ kết dư chuyển sang năm 2021 lần lượt là: Quỹ ốm đau, thai sản gần 13,000 tỉ đồng; Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp gần 54,000 tỉ đồng; Quỹ hưu trí, tử tuất gần 790,000 tỉ đồng; Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp gần 90,000 tỉ đồng: [ https://baomoi.com/yeu-cau-lam-ro-vi-sao-ket-du-cac-quy-bao-hiem-lon/c/39910610.epi ].

Tổng kết trên giấy tờ là như vậy, nhưng phản động ngờ rằng, nếu chất vấn tà quyền rằng vậy tiền này giờ đang ở đâu, ở ngân hàng nào? ai đang giữ nó? Người ta đau bệnh, người ta thất nghiệp, người ta chết vì đói, tại sao không giải ngân theo đúng nguyên tắc phải trả cho người ta trong những trường hợp tương xứng, đảm bảo không có quan chức nào trả lời nổi câu hỏi này, rồi lại chối quanh co, rồi lại viện ra đủ lý do giấy tờ, hành chính. Kể cả gói 62 ngàn tỉ, rồi 26 ngàn tỉ hỗ trợ đại dịch, cho tới giờ này cũng chẳng biết nó đi đến những đâu rồi, không có một số liệu nào được minh bạch ở đây [ Phản động thách anh chị Dư luận viên nào cung cấp đầy đủ được số liệu này ]. Nghe nói riêng đảng viên là những nhân tài của dân tộc đã lên tới 4-5 triệu, cộng thêm tầm vài triệu viên chức đối tượng đảng trong các công sở nhà nước nữa, thời kỳ 4.0, chính phủ điện tử, tự hào có công nghệ 5G, mà làm cái giống gì mà ngồi tính có mấy trăm ngàn tỉ tiền đồng Hồ mà tính không xong? Nhìn cái mặt mấy quan chức lúc ấp úng trả lời những câu hỏi của dân, mới dễ thương làm sao ấy, y như gái lầu xanh kỳ cựu đang ráng thuyết phục khách hàng lâu năm lý do mình vẫn còn trinh nguyên vậy.

Ủa, vậy là cuối cùng những cái đống tiền khủng khiếp được Đảng công bố ở bên trên kia, cuối cùng là để dùng làm việc gì trên cái mảnh đất “Lắm người nhiều ma” hình chữ S này?

Các em dư luận viên biểu: Đảng còn biết bao việc lớn, phải xài tiền chớ sao, nào là lương công chức nhà nước, an ninh chìm nổi, công an chìm nổi, nuôi mấy triệu thành viên AK47, còn xây biết bao nhiêu tượng đài, còn trả tiền cho binh đoàn lăng canh giữ xác chết, còn mua hóa chất khử trùng phun khắp cây cối, đường phố, dù không có người đi ra ngoài đường, còn mang xây nhà quốc hội Lào, còn trả tiền nợ cho đường sắt Cát Linh Hà Đông [ Đường sắt Cát Linh-Hà Đông chưa xong đã phải trả nợ: Năm 2020, Việt Nam phải trả khoảng 152 tỷ đồng nợ gốc số tiền vay từ Trung Quốc. Tổng thầu EPC Trung Quốc lại tuyên bố, nếu phía Việt Nam không thanh toán đủ tiền thì tàu sẽ không chạy thử toàn tuyến ] [ https://tuoitre.vn/duong-sat-cat-linh-ha-dong-chua-hoan-thanh-da-phai-tra-no-vay-20200205135017159.htm ]., blap, blap, blap …

Đó, nhiều việc dữ vậy, đảng lấy tiền đâu nữa mà cứu trợ dân nghèo.

Nên, trong ba mươi sáu kế [ tam thập lục kế ] trong binh thư, kế tốt nhất để quan chức Đảng không phải bỏ ra đồng nào, là “Lấy sức dân nuôi sức dân“, mà giải thích theo cách dân gian là “Lấy mỡ cá rán cá“.

Nói tới đây mà ai kêu đảng đích thị là hồn ma báo oán thì đám dư luận viên lại nhảy dựng lên. Mấy em ngồi coi tin tức của bọn phản động quanh năm suốt tháng mà mấy em không thấy dân người ta “Lấy sức dân nuôi sức dân” từ bao nhiêu năm nay rồi hả? Ai khiến đảng của các em nhảy vô đây nhắc nhở dân vậy? Nếu dân không tự “Lấy sức dân nuôi sức dân” từ khi dịch mới chỉ bùng phát, thì thử hỏi giờ này còn dân ngoại tỉnh nào ở Sài Gòn, Hà Nội, còn sống nổi mà đi xe máy về quê không? Nếu không có dân tự “Lấy sức dân nuôi sức dân” từ đời nào tới giờ thì đảng có rảnh tay ngồi đó mà bàn chuyện nâng giá máy móc điều trị covid, rồi hả hê mang gạo đi chỗ này chỗ kia mà tặng không? rảnh mà hội họp với hồn ma ngoài Ba Đình không?

Đảng lựa chọn thời điểm hay dữ, ngay lúc người dân hết sạch mỡ lẫn máu sau mấy tháng tự động gồng gánh sứ mệnh trợ giúp đồng bào của mình, mà đảng thì đã hút máu no nê từ trước đại dịch covid tới trong đại dịch covid rồi, lúc này cá nào còn chút mỡ thì cũng chỉ đủ lo cho sự sống của bản thân thôi, còn lại phải buông tay để đảng làm việc đúng ra đảng phải làm từ đầu mùa dịch. Đảng vừa thấy dân lơ là với sứ mệnh “cứu đồng loại”, là đảng phát động ngay chiến dịch “Lấy sức dân nuôi sức dân”. Vậy mà biểu đảng là ma quỷ đảng nhất định không chịu.

Ngoài ma quỷ nào ra, có thứ sinh vật nào nó sẵn lòng hút máu của người gần chết, và ăn xác chết của đồng loại mình không. Coi trong phim thì chỉ có loài Zombie nó làm được như vậy, mà zombie hình như nó cũng chê xác chết, nó chỉ hút máu ai còn hút máu được thôi.

Thờ ma quỷ hoài rồi dần dần hóa ra ma quỷ là chuyện có thiệt Bà con ạ.

Mà thôi, đồng bào nào còn mỡ, còn máu thì cứ hiến tặng cho Đảng đi, cho chính phủ đi. Hết mùa dịch thì lúc đó chắc nhiều bà con cũng hóa thành cô hồn là vừa. Lúc đó, Bà con nào muốn bay tới lăng Ba Đình, vừa để dự Hội nghị tuyên dương các hồn ma yêu nước, yêu đảng, vừa được chiêm ngưỡng xác ướp Bác Hồ, thì cứ thỏa sức mà bay, khỏi cần nhờ máy bay của Đảng, vừa phải trả tiền vé, vừa phải mặc đồ bảo hộ, đeo mặt nạ phòng chống covid. Chỉ sợ tới lúc đó, bà con làm ma đói không có sức để bay thôi.

Còn mấy em dư luận viên, đảng cũng đang xài mấy em như mỡ để rán cá cho đảng ăn thôi nhen, bớt tự hào lại đi, kẻo tới lúc hồn ma của dân đông tới mức nếu tập hợp lại mà mạnh hơn hẳn hồn con ma ở ngoài lăng Ba Đình thì mấy em hết cười nổi đó.

Lấy sức dân nuôi sức dân“, nghĩa là nếu như phe dân thua, không còn sức mà lo cho những người khổ hơn mình, thì lỗi làm những người khác chết là tại dân nghen bà con [ Bà con không hoàn thành nhiệm vụ Đảng giao phó ], còn nếu dân vẫn còn đủ mạnh để tiếp tục lo cho nhau, thì sau đó, đảm bảo bài ca “Cơm ngon áo ấm nhờ ơn Đảng” sẽ được cất lên khắp nơi. Bà con ráng nhớ đừng quên nhen…

Tác Giả: Từ Liên.

Quan chức Đảng và nỗi khổ mùa dịch bệnh. Tác Giả: Từ Liên.


Đảng ra lệnh cho tay sai ngồi coi phản động nói trên mạng, còn nhiều gấp mấy lần phản động ngồi coi họ. Họ dựa vào những gì phản động làm và phản ứng của người dân rồi mới quyết định hành động hay không. Đừng có mà nói phản động làm việc vô ích.

Hổm rày, bà con trên mạng la lối than thở về tình hình dân đen với dân đỏ nhiều quá… Đụng tới chỗ nào người ta cũng chỉ có kêu than, và chửi bới. Nhiều người dân còn tỏ ra mất kiên nhẫn, chửi luôn cả cán bộ ở các trung tâm y tế khi được mời chích vaxin Tàu. Ở các cửa ngõ Sài Gòn, người ta gầm gừ với cán bộ canh chốt, ngăn không cho người ta về quê, mà cũng không phát cho người ta tiền trợ cấp, hay lương thực thực phẩm. Cả Sài Gòn rần rần, tưởng chừng như sắp có nổi loạn tới nơi.

Các quan nhà Đảng khệnh khạnh vác loa ra chốt kiểm dịch, kêu gọi bà con bình tĩnh, bà con cứ làm như quan chức người ta không khổ vậy, họ có nỗi khổ riêng của họ, chỉ là họ không thể nói ra cho bà con hiểu mà thôi, bà con cứ nhất định không chịu cảm thông với họ, thì đất nước tới ngày nào mới thái bình, thịnh vượng được .

Đại loại, quan biểu, Bà con ơi, có đói, có khổ tới mấy bà con cũng phải biết quên bản thân mình đi mà nghĩ cho Đảng, cho lãnh đạo chớ. Thi hào có trí tuệ đỉnh cao tầm cỡ vũ trụ là ngài Tố Cáo cách đây gần nửa thế kỷ đã từng viết: “Trái tim anh đó – Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ: Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều – Phần cho thơ, và phần để em yêu…”… Còn mới đây, Bí Thư Thành Quỷ [ Phát âm đúng giọng miền Nam nha ] Sài Gòn Nguyễn Thiện Nhân đã khuyên bà con: ‘Những lúc khổ cực, hãy nghĩ tới Bác Hồ’, mà sao bà con hổng nghe lời chi hết vậy. Nếu có đói, khổ, con cháu thất học, bị cướp đất, cướp nhà, không còn chỗ ở, bị coi như con vật, thì bà con dắt con cháu ghé ngang tượng đài Bác Hồ trước Nhà Hát Lớn thành phố ngắm tượng Bác, ngủ luôn ở đó, đảm bảo bà con no nê, ngủ ngon, người Việt vốn quen sống bằng tinh thần rồi mà.

Bà con có biết dịch bịnh như vầy, quan chức và Đảng viên cũng khổ dữ lắm không? Đọc kỹ báo Đảng một chút, bà con mới thấy trong đại dịch này, quan chức Đảng cũng bị uýnh cho liểng xiểng, chỉ có điều, đám này không bị bệnh dịch uýnh, không bị dân uýnh, không bị đói khổ uýnh, mà bị Đảng và đồng chí “con chí cắn đôi, củ khoai xẻ nửa” uýnh. Mà cứ nói cho lẹ, ngoài mấy đồng chí nằm cùng mền, biết mền có rận chỗ nào, nên mới giăng bẫy được nhau, chớ dân thường thì lấy cái quần què gì mà uýnh được các đồng chí ở trong nhà biệt phủ, có bẹc giê gác cửa mấy lớp.

Để kể bà con nghe nỗi khổ của quan chức mùa dịch bệnh.

Nỗi khổ thứ nhất, nhà máy, công xưởng, quán ăn, trung tâm thương mại, các loại hình buôn bán, đồng loạt đóng cửa, tiền bảo kê một tháng bình thường thu vô biết bao nhiêu, nguồn máu chính thức của các quan chức, giờ tự nhiên không hút được nữa, hoặc hút được chút éc, mà công sở nào cũng đầy rẫy côn trùng các thể loại, nên phải cắn xé nhau giành miếng ăn, mấy quan ở tầng thấp nhất phải chấp nhận hạ giá nhân phẩm một cách thảm hại, nhảy vô ăn tranh cả đồ cứu trợ lẫn cả tiền cứu trợ của dân nghèo. Họ sẵn sàng làm đủ thứ nghề để moi được tiền của dân trong thời kỳ này, bao gồm cò mồi khu cách ly, cò mồi các chuyến xe 0 đồng [ nhưng thu tới 2-3 triệu đồng / người ], cò mồi ở lò thiêu xác, cò mồi quan tài…

Mà cái vụ hụt thu đó vẫn chưa khổ, dù gì thì quan lớn quan nhỏ cũng ăn lai rai trong nhiều năm rồi, không tích lũy được nhiều thì cũng đủ sống vượt qua bệnh dịch, hàng tháng vẫn có lương đều đều, muốn chết liền cũng khó.

Khổ nhất là nhà nghỉ, khách sạn, nhà hàng “ngầm”, bia ôm, karaoke, sân Golf và những khu nghỉ dưỡng khác tự nhiên cũng phải đóng cửa. Cái này thiệt là vô lý đối với một cái nước mà người ta dạy dân sống bằng tinh thần, biểu người ta ăn ít đi, người ta còn ráng chịu được, nhưng phải cho người ta thoải mái về mặt tinh thần chớ, sao mấy cái chỗ có thể an ủi, vỗ về tinh thần cho những con người cả đời đau khổ vất vả vì dân tộc lại bị đóng cửa. Cái này, Đảng thiệt là sai, là Đảng ra tay tàn phá văn hóa xã hội chủ nghĩa, Đảng đừng có trách vì sao quan chức của Đảng lại làm loạn. Mà cũng nhờ các anh Đảng viên muốn làm loạn này cạnh tranh với nhau quyết liệt, mà dân tình mới được mục kích nhiều chuyện cười ra nước mắt.

Mở màn cho cuộc thi Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức Bác Hồ trong mùa đại dịch, các đồng chí Đảng viên đã hăm hở tham gia chương trình tìm kiếm “Người Giấu Mặt” [ Chương trình giải trí trên VTV6 ], lập tức đã kiếm ra anh bệnh nhân ca covid số 21. Ảnh cũng còn xuân xanh, 61 tuổi, đặc biệt ảnh có chân ở trong Hội đồng Lý Luận Trung Ương, nghe nói ảnh có 4 căn nhà mặt tiền liền nhau ở một trong những quận đắt đỏ nhất ở đâu đó gần lăng Bác Hồ. Ảnh than ảnh ít nhà quá, ở chật chội, nên ảnh mua thêm mấy cái chung cư cao cấp để nghỉ dưỡng, nhân tiện, cho sugar baby của ảnh ở ké. Ảnh đi máy bay từ nước ngoài về, ngồi gần một ca covid, xuống sân bay, ảnh không ghé về nhà, mà ảnh ghé phòng gym, đi sân golf, rồi ghé qua chung cư cao cấp “tập thể dục” tiếp với sugar baby, rồi ảnh mới về nhà với vợ già con thơ…

Ảnh làm đúng lời Bác Hồ dạy “Khỏe là yêu nước”, nhưng mà, ai biểu anh khỏe quá sức, nên đồng chí của ảnh hận, hè nhau lôi cổ anh ra coi anh có khỏe thiệt không. Ai dè, vừa gặp ánh sáng, ảnh dúm dó người lại như một con trùn sống trong lòng đất lâu, giờ không chịu nổi ánh sáng trong lành, hên mà cụ Tổng sợ mất mặt Hội Đồng Lý Luận Trung Ương nên phải tìm mọi cách mà cứu ảnh. Ảnh mà có mệnh hệ gì thì ai mà dám can đảm bước lên trước trăm đại biểu, hàng ngàn Đảng viên, mà hùng hồn giảng về đạo đức của Đảng, của Bác Hồ. Nói gì thì nói chớ, người có khả năng nói hùng hồn trước công chúng những thứ mà chính bản thân mình cũng không hiểu gì hết, cũng là hàng hiếm lắm, phải được bảo vệ theo chế độ “MẬT”.

Mà công nhận ảnh mở hàng mắc thiệt, sau đó thì những quan chức Đảng cấp lớn cấp nhỏ cũng ùn ùn noi gương ảnh, theo nhiều cách khác nhau vô cùng sáng tạo. Ai mà biểu quan chức Đảng đầu óc lạnh lùng, xơ cứng, thiếu sáng tạo, chắc chắn là do ít đọc thời sự.

Liệt kê tạm ra ở đây nhen:

  1. Chủ tịch xã xin nghỉ việc sau khi bị tố có clip “nóng” với nữ Chủ Tịch Hội Nông Dân [ Người Lao động online, 07/2020 ].
  2. Chủ tịch MTTQ xã vào nhà nghỉ với vợ người khác nói “để bàn công việc” [ Giao Thông online, 12/2020 ].
  3. Chơi golf giữa mùa dịch, Giám đốc Sở Du lịch Bình Định thành F1 [ Vietnam.net 8/2021, F0 là một nữ phục vụ trong sân golf ].
  4. Cách chức phó giám đốc Sở Kế hoạch và đầu tư Thái Nguyên sàm sỡ nữ nhân viên [ Tuổi trẻ online, 08/2021 ].
  5. “Đi xem đất” [ với nữ cán bộ đồng nghiệp ] khi đang chống dịch, Trưởng Ban Kinh Tế-Ngân Sách HĐND tỉnh Phú Yên bị xử phạt [ Công an nhân dân, 08/2021 ].

….

Danh sách này mới là một phần nhỏ thôi nha, kể nữa thì hết cả ngày, 800 tờ báo cũng chẳng đủ chỗ mà in danh sách những tên tuổi của đỉnh cao trí tuệ này.

Chuyện này phổ biến tới mức, nhiều tờ báo lề phải cũng chịu khó ngồi tổng kết được vài loại lý do quan trọng khiến các cán bộ Đảng [ dân thường không có cửa và không được kể ra ở đây nhen ] phải vào nhà nghỉ với nhau, chắc là để mấy anh em đồng đội biết trước mà đề phòng. Mà tuyệt nhiên không có ai rảnh mà kéo nhau vào nhà nghỉ để “giải trí” hay “có ý đồ không lành mạnh” đâu nhen, toàn là vào để bàn công chuyện, để học hỏi [ đạo đức ] lẫn nhau, để chữa bệnh cho nhau, đồng chí đồng đội thương yêu nhau đúng lời Bác dậy, dân không biết làm theo mà ngồi đó càm ràm cái gì.

Nghe các tờ báo này liệt kê các lý do nè: Vào nhà nghỉ để chữa bệnh sốt rét; Vào nhà nghỉ để đưa thuốc hạ men gan; Bí thư Huyện ủy vào nhà nghỉ để hỏi thăm sức khỏe nữ cán bộ; Vào nhà nghỉ để tâm sự cho tiện; Vào nhà nghỉ để… “đặt cọc tiền mua đất” [ https://kenh14.vn/can-bo-giao-vien-vao-nha-nghi-voi-nhung-ly-do-ky-la-tu-hoi-tham-suc-khoe-chua-sot-ret-cho-toi-dat-coc-mua-dat-20190418184655015.chn ].

Tờ Tienphong.vn thêm vô: Trưởng phòng giáo dục cho cô giáo mượn tiền tại nhà nghỉ; CSGT vào nhà nghỉ với cô giáo mầm non để “tâm sự”; Chủ tịch xã vào nhà nghỉ với góa phụ trẻ vì “đau bụng” [ https://tienphong.vn/nhung-vu-can-bo-vao-nha-nghi-cung-nguoi-khac-gioi-vi-ly-do-troi-oi-post1105603.tpo ].

Mà nghe giang hồ đồn, không biết mấy anh chị đó bàn nhau coi đất đai lớn cỡ nào, hay đau bệnh nặng cỡ nào, nhưng mà trường hợp nào lúc các cán bộ đồng chí đồng đội ập vô tóm, thì anh chị nào cũng đang trong tình trạng nóng sốt hầm hập, mùa hôi túa ra khắp người, dù ở trong phòng máy lạnh, mà họ sốt cao tới nỗi không mặc được quần áo, anh chị nào còn kịp thời gian mặc để đón tiếp các anh em cho lịch sự một chút thì trang phục của họ cũng trong tình trạng hết sức nghèo khổ, xộc xệch, thiếu vải, mà tóc tai họ thì rối bù lên, cứ như là họ vừa mới uýnh nhau dữ dội vậy, ai nấy bầm dập tơi tả, kinh hãi thật.

Các anh công an khu vực nhìn họ mà sợ chết khiếp phải la làng. Chết cha! đau bệnh nặng vầy thì các anh chị phải tới bệnh viện chớ, sao lại vô chỗ này, có phải nhà nghỉ nào cũng có bác sĩ trực chữa cho các anh chị đâu? Các anh chị học tới mấy bằng đại học, mấy bằng tiến sĩ, lý luận Đảng các thể loại, mà sao kiến thức lại còn nông cạn thế? Mà các anh các chị lớn rồi, có học thức, có chuyện gì bất đồng ý kiến với nhau thì cũng nói chuyện nhẹ nhàng với nhau thôi chớ, các đồng chí uýnh nhau tơi bời kiểu này có ngày thiệt mạng, ai chịu trách nhiệm, toàn là người có vợ con / chồng con rồi mà không biết tiếc thương tính mệnh của mình là sao? Thôi, tôi chỉ phạt nhẹ các anh chị mấy củ thôi, dù gì chúng ta cũng là cán bộ nhà nước, đồng hội đồng thuyền, để các anh chị còn về đi khám chữa bệnh với đi mua đất, không người ta mua hết đất thì lấy gì con cháu các anh chị sống?

Đó! AK47 ơi! Dư lận viên ơi! Cố lên! Cố nữa lên! Mấy em cứ vừa chửi dân phản động xong, thì ngay hôm sau, hàng loạt báo của Đảng lại đăng bài nói ngược lại mấy em như vầy, làm sao mấy em có cửa mà chiến thắng phản động đây? Có phản động nào nó đủ tầm cỡ làm mấy chuyện này không? Có phản động nào mà nhận được mật báo mà có thể phục kích được mấy chuyện này không? Phản động người ta lo đi làm ăn đàng hoàng rồi, ngồi làm mấy chuyện khai dân trí cũng kiệt sức rồi, thời gian đâu mà đi tập gym ở phòng tập, tiền đâu mà vô nhà nghỉ, mà đi coi đất đai. Nếu không phải người của Đảng, ghen ăn tức ở với nhau, khui nhau ra thì phản động nào nó chui vào tận gầm giường của mấy anh chị này mà lôi mấy chuyện này ra ánh sáng vậy? Báo lề phải của các anh chị khoe nhau cả đó nhen, còn nguyên bài, còn nguyên đường link, đừng có nói phản động bịa chuyện mà có ngày chuẩn bị bịch đi mà lượm răng đó nhen. Phản động chỉ không đủ khả năng nói láo, vu oan giá họa cho người khác thôi, chớ còn mấy việc khác thì phải coi lại nhen.

Đó, có ai còn nói quan chức Đảng thì không khổ vì bệnh dịch nữa hay không? Có quan chức nào còn nói chưa thấy hậu quả của bệnh dịch nữa không?

Ngoài nỗi khổ của quan chức mê bàn công chuyện trong nhà nghỉ, thì mùa này là mùa nhiều quan chức vẫn nằm trên đống tiền mà ăn không ngon, ngủ không yên, lo sợ bất thình lình bị đem ra làm “củi” cho cụ Tổng đốt lò.

Không biết có phải do cụ già quá rồi lú lẫn hay không, hay do cụ bực mình, cụ già rồi, ăn không được bao nhiêu, tiền thì mấy đời xài không hết, mà cái đám tham quan nhà cụ nó cứ nhai rào rạo đủ thứ trước mặt cụ, từ lương thực thực phẩm tới đất đai, rừng rú, từ hàng hóa thiết yếu, tới tã bỉm em bé, băng vệ sinh phụ nữ, mạnh thằng nào thằng đó vơ vét tới kiệt sức dân, đào tài nguyên tới ăn vào long mạch của đất nước, không giữ chút thể diện nào cho cụ hết, mà cụ thì giờ đã tuyên bố trước toàn dân rằng cụ coi danh dự mới là điều thiêng liêng nhất. Cụ mà không làm nghiêm lên thì tới lúc cụ chết, trên Facebook của Đảng, toàn dân nó lại toàn thả icons mặt cười Haha như đám tang của mấy lãnh tụ Đảng trước đó, thì hương hồn cụ chỉ có nước mà xuống thẳng tầng cuối cùng của địa ngục.

Thế là cụ phải còng lưng đi nhóm lại mấy cái lò đã nguội lạnh. Sơ sơ từ đầu mùa dịch:

Tháng 5/2020, cụ Tổng giơ cao đánh khẽ, triệu tập thanh củi là anh nguyên Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng Nguyễn Văn Hiến, do đã có những vi phạm, khuyết điểm rất nghiêm trọng trong thời gian đương nhiệm [ Giải thích sơ cho bà con hiểu từ ngữ của Đảng, nếu họ nói là thiệt hại rất nhỏ thì là khoảng vài chục tỉ, thiệt hại vừa vừa thì khoảng đơn vị trăm tỉ, thiệt hại nghiêm trọng là đơn vị ngàn tỷ, thiệt hại rất nghiêm trọng là đơn vị chục ngàn tỉ đổ lên ]. Anh này là dân hải quân, nghề chánh của ảnh là đi bán cả biển đảo lẫn đất liền, vốn không phải là sở hữu của ảnh, cho bất cứ ma quỷ trong, ngoài nước nào có tiền mua.

Tháng 4/2020, đảng thay mặt cụ trao quyết định “Thanh củi vĩnh viễn” cho anh Nguyễn Bắc Son ( cựu Bộ trưởng Bộ Thông Tin và Truyền Thông ) bị về tội “Vi phạm quản lý đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng” và tội “Nhận hối lộ”. Đảng nói, dù là ảnh ăn hối lộ có mấy triệu đô la Mỹ thôi, số này chẳng nhằm nhò gì với Đảng, nhưng ảnh lại ăn mảnh một mình, Đảng không thể tha thứ được cái thứ đồng đội bất lương đấy. Cắt chức xong anh Son, Đảng mời một anh khác lên thay với tâm hồn còn trong sáng, chói lọi hơn cả anh Son nữa.

Anh Trương Minh Tuấn, khi thay anh Son làm tới Bộ Trưởng Bộ Thông Tin – Truyền Thông vẫn còn ngây thơ như trẻ em. Lúc người ta chất vấn số tiền 200,000 [ hai trăm ngàn đô la Mỹ ] anh Vũ Nhôm đưa ảnh, ảnh thật thà nói: “Lúc đầu tôi tưởng 200,000 USD là quà mừng tôi lên chức Bộ trưởng” [ https://thanhnien.vn/thoi-su/bi-cao-truong-minh-tuan-luc-dau-toi-tuong-200000-usd-la-qua-mung-len-bo-truong-1160061.html ]. Toàn dân Việt Nam chắc ai cũng ước được trong sáng, hồn nhiên như ảnh hết.

Tháng 7/2020, Đảng lại kiếm được cho cụ hai thanh củi mục nát là ông Vũ Huy Hoàng, cựu Bộ trưởng Bộ Công Thương, và bà Hồ Thị Kim Thoa, cựu Thứ trưởng Bộ Công Thương, hai thanh củi này can tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát lãng phí, liên quan tới khu đất “vàng” ở Sài Gòn. Vậy mà hổng biết Đảng làm ăn thế nào, lúc thông báo truy tố thì chị Thoa đã cao chạy xa bay làm dân xứ tư bản rồi, làm anh Hoàng ảnh hận gần chết.

Tháng 12/2020, anh Nguyễn Nhật Cảm ( cựu Giám Đốc Trung Tâm Kiểm Soát Bệnh Tật Hà Nội ) bị tuyên thành củi mới, ảnh phạm tội “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng”, liên quan đến việc lợi dụng tình hình dịch nâng khống giá máy xét nghiệm covid. Mà thiệt tình, ảnh không nâng thì lấy gì mà chia cho anh em bạn bè đồng chí ăn. Ai cũng hiểu là ảnh chia không đều sao đó, chọc giận đồng đội khó tánh, nên họ mới làm bộ giận lẫy anh chút thôi. Sau khi đồng đội ảnh khích động phong trào cùng nhau giận lẫy trong các bệnh viện khác, thì người ta lôi ra được chừng một chục ông giám đốc, phó giám đốc ở các bệnh viện khác với cùng một tội danh, lợi dụng bệnh dịch nâng giá các thiết bị y tế các thể loại khác nhau, đảm bảo xử tới hết dịch cũng chưa hết. Dân chúng tha hồ có kịch hay mà coi.

Ngoài ra, còn các anh hùng thời kỳ đổi mới như các anh chị trong ngành ngân hàng, dầu khí, tiêu biểu như anh Đinh La Thăng, anh Nguyễn Bắc Hà [ đã về với Bác ], anh Nguyễn Quang Sáng [ đã trốn thoát thành công ], và nhiều anh / chị khác còn chưa được xử rốt ráo, do mấy anh / chị đó cùng lúc dính vào nhiều vụ quá, mà vụ nào tình tiết cũng ly kỳ phức tạp, đủ cho mười cụ Sherlock Holmes sống lại, hoặc 100 anh Conan trẻ khỏe cũng không tìm ra được những mưu sâu kế hiểm của đám tội phạm cao cấp này, Đảng thấy chưa mướn được kịch gia đủ khả năng mà viết rành mạch cho dân chúng người ta hiểu được nên chưa công bố bản án cuối cùng.

Cứ cái kiểu này thì Lò của cụ Tổng coi bộ đủ củi để hỏa thiêu cả cụ nếu như cụ có gục ngã giữa chừng, không cần phải mang cụ tới Bình Hưng Hòa xếp hàng cho mệt. Mà cụ vẫn rất tự hào với nghề đốt rác của mình, cụ không quan tâm tới chuyện tại sao có rác, ai xả rác bừa bãi nhiều dữ vậy, làm sao để ngăn chặn rác phát sinh, cụ cũng đếu quan tâm tới chuyện đốt rác nhiều sẽ gây ô nhiễm môi trường sống, xói mòn niềm tin của những người thích sống trong môi trường sạch sẽ, trong lành, cụ nói nghề của bố mày là đốt rác, còn thằng nào thích xả rác thì cứ xả, bố mày đếch quan tâm. Bố mày đi kiếm rác đây.

Gần đây, anh Tất Thành Cang và anh Nguyễn Đức Chung vinh dự đại diện cho hai miền Nam – Bắc thống nhất, đã liên tục được cụ Tổng réo tên, hò hét các anh chuẩn bị tắm rửa sạch sẽ, đặng để Đảng ướp gia vị đầy đủ, chuẩn bị cho vô lò.

Anh Nguyễn Đức Chung “đã tạo điều kiện” cho công ty ‘sân nhà’ do vợ mình thành lập để kinh doanh nhiều sản phẩm, hàng hóa “hưởng lợi nhuận cao”. Người ta tính sơ qua mới có một vụ hóa chất làm sạch sông Tô Lịch mà nhà ảnh lời 36 tỷ, còn mấy vụ khác chắc chưa tính hết được. Tuy nhiên, dù gì ảnh cũng là Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam, Đảng có xử ảnh thì cũng phải dòm trước ngó sau, chớ mấy anh công an đang sắp lên chức mà thấy Đảng làm thịt người của mình dữ quá, mấy ảnh rủ nhau làm phản thì ghế của Đảng cũng lung lay. Cụ Tổng chỉ muốn nhắc chừng mấy anh khác: Tụi bây ăn thì phải chia ra cho đều, tụi bây mà tham, tụi bây chết như thằng này, ráng chịu. Mà tụi bây tưởng tụi bây làm tới cái chức đó là ghê gớm lắm hả. Đảng nuôi tụi bây mập lên, lúc chưa cần thì để tụi bây yên, chứ lúc gà vịt không còn lông để vặt, thì người ta phải kiếm chó, mèo, trâu, ngựa, mà xử dần chứ còn sao nữa.

Còn anh Cang, thì sau nhiều lần cụ Tổng chơi trò ú òa hù ảnh, Đảng thì giơ cao đánh khẽ, cứ y như là “làm ám hiệu” để ảnh có đủ thời gian phù phép cho hết tài sản của ảnh, phù phép đi đâu thì chỉ có Đảng với cụ tổng biết, tới tháng 5/2021, Viện Kiểm soát nhân dân đã truy tố ảnh cùng 18 đồng phạm về tội tham ô, vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước. Họ mới tính ra sơ sơ thiệt hại cho ngân sách nhà nước là hơn ngàn tỉ thôi, số còn lại thì đi “du lịch” ở đâu rồi chưa rõ. Ở Việt Nam, thiệt chẳng có mấy nghề mà lại khổ cực như nghề làm công an điều tra tội phạm kinh tế, toàn bị người ta hiểu lầm mình là phù thủy, biết phép biến hóa thần thông, chứ tiền mà chở từng xe từng xe mang đi hối lộ, rồi lại mang đi cất giấu, mà những lúc đi qua bao nhiêu đồn công an, nó cứ như có phép tàng hình vậy, không ai thấy tăm hơi. Chửi mấy ảnh thì cũng oan thiệt, mấy ảnh thiệt tình là không có cách nào tìm ra cái phép màu thần diệu của Đảng với cụ Tổng bí mật truyền lại cho nhau.

Vậy nên Bà con cứ ai ở đâu ở yên chỗ đó, chờ các kịch gia lên kịch bản, đảm bảo mấy chục mùa bệnh dịch nữa cũng chưa xong đâu, mà vụ nào thông báo là xong, thì toàn bộ số tiền thu hồi được đều cũng âm thầm biến mất, Đảng sẽ kêu lâu quá rồi nên không nhớ nó đi đâu, có gì cứ hỏi cụ Tổng. Mà cụ Tổng già vậy rồi, ai nỡ bắt cụ phải nhớ chính xác được.

Đó, có ai còn ganh tỵ là làm quan Đảng mà sung sướng nữa hay không?

Nỗi khổ tiếp theo của quan chức Đảng, chính phủ, nhà nước là chuyện đối ngoại.

Bà con cũng biết rồi đó, thời buổi này loạn lạc dữ lắm, thù trong giặc ngoài, giặc Tàu thì tập trận đùng đùng ngoài Hoàng Sa, các hãng dược sản xuất vaxin của họ thì cứ mang từng xấp đô la tiền huê hồng qua mà dí vào mặt các quan chức Đảng, con người bằng xương bằng thịt thì làm sao mà chịu nổi thứ sức hấp dẫn ghê gớm này, mà bà con biết không, không nhận tiền của mấy ảnh cũng không xong đâu nhen, mấy ảnh giận hờn, mấy ảnh làm loạn lên, thì hết cả tình bạn bốn tốt mười sáu chữ vàng. Mà nhận của mấy ảnh thì phải nhập hàng của mấy ảnh về.

Các quan Đảng nói, Anh, Mỹ, Úc, Pháp, Nhật là đồ tư bản keo kiệt, không biết nhìn xa trông rộng thì chết ráng chịu, muốn người ta mua hàng của mình mà không chịu xì ra đồng nào hối lộ cho các nhà phân phối chính, hành xử kém như vậy thì có đói tới rã họng, giãy chết đành đạch cũng không đứa nào nó mua cho đâu nhen. Có mỗi cái câu “Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn”, mà học cộng sản tới cả thế kỷ vẫn chưa thuộc, thua xa các bạn cộng sản, nghèo mấy thì nghèo, nhưng lúc nào cũng chơi sang, hàng chưa ra lò thì tiền đã chạy qua túi nhà quan chức hữu trách rồi.

Nghe tin các nước giàu lập quỹ phòng chống covax rồi cơ chế tặng covax, Cụ Tổng chửi, tụi tư bản chưa gì đã huênh hoang, bây đừng tưởng bây giàu vậy đã là ghê, bày đặt tặng vaxin theo chương trình covax này nọ, bây mà có tặng thì ông cũng chỉ lấy ông chích cho Đảng viên nhà ông thôi nhé, còn bây mà bán thì đừng hòng ông mua nhé, dù bây có bán rẻ hơn với lại bây chứng minh là vaxin của bây tốt hơn thì ông vẫn mua hàng Tàu nhé, đừng tưởng ông nghèo mà dễ mà bán hàng cho nhà ông. Không muốn bỏ trước ra đồng nào lót tay thì cứ ngồi đó mà chờ tới tết Công Gô nhé.

Mà tụi bây tưởng nước ông nghèo hả? Không thấy ông mới đem cho không 12 ngàn tấn gạo cứu trợ cho Cuba hả? Để coi tụi bây có lật đổ nổi Cuba không. Mới tuần trước, ông còn bàn giao công trình Nhà quốc Hội Việt Nam xây tặng Lào trị giá 112 triệu USD [ Khoảng 2,560 tỉ đồng Bác Hồ ], tụi bây làm được không? Có ngon lấy tiền thuế dân nhà bây mà đi xây cho quan chức nhà người ta cái nhà đẹp vậy coi? Chưa kể, tụi ông còn xây cho mỗi tỉnh, thành, dù là nơi khỉ ho cò gáy, chó ăn đá, gà ăn sỏi, ít nhất là một cụm tượng đài hoành tráng nhé, mà cụm tệ nhất cũng phải tính bằng hàng trăm tỉ đồng tiền Hồ nhé? Ai còn nói Việt Nam nghèo nữa hay không?

Trong khi nhiều nơi trong cả nước, dân tình sắp chết đói, ngáp ngáp như cá bị quăng lên bờ, đèo bồng nhau tháo chạy trong tuyệt vọng, y như Taliban đang tiến vào thủ đô Kabul thì đột ngột đổi hướng qua Sài Gòn dí người dân ngoại tỉnh đang sống ở Sài Gòn vậy, thì anh Phúc Nổ, đi qua Lào phát biểu “Mặc dù Việt Nam cũng đang gặp nhiều khó khăn, nhưng trên tinh thần đồng chí, anh em thân thiết, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã hỗ trợ kinh phí để giúp đỡ Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào xây dựng tòa nhà Quốc Hội mới, là biểu tượng của mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, tình đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Lào trên tinh thần “hạt gạo cắn đôi, cọng rau bẻ nửa”.

Dân đang chờ tiền cứu trợ, dân đang ngồi hóng lương thực hỗ trợ, nghe mấy tin tức này thì chưng hửng: Không hiểu Đảng với nhà nước lấy tiền đâu ra mà đi xài như Bạch Công Tử thời xưa vậy? Dân thoi thóp trước mắt thì Đảng không lo, Đảng đi lo xây tượng đài với lo tô vẽ hình ảnh của Đảng trong con mắt các anh em xã hội chủ nghĩa của Đảng là sao ta? Đảng bị mù lòa chăng?

Xưa nay Đảng quen mướn bồi bút lên viết bài gạt dân. Nay quan Đảng nói “Chủ tịch nước thưởng Đội tuyển bóng đá Việt Nam 1 tỷ đồng”, mai quan lại viết “Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam gửi tặng 2,000 hộp thực phẩm trị giá 4 tỷ đồng tới các F0 tại TP.HCM”, mốt nữa lại khen, Phó Thủ Tướng Trương Hòa Bình thăm, tặng quà người có công ở TP.HCM, rồi Đảng đóng năm trăm ngàn đô cho quỹ covax, tặng gạo cho Cuba, Đảng tặng nhà quốc hội cho tụi Lào, mặt trận tổ quốc trợ giúp dân mùa dịch… Dân nghe tin thấy hí hửng lắm, yên tâm rằng nước mình giàu quá, chủ tịch Đảng, chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội ai cũng giàu. Đã giàu mà còn làm nghĩa hiệp nữa thì Việt Nam phải đứng nhất thế giới là cái chắc rồi.

Tên phản động nào mà lên tiếng giải thích cho dân nghe kiểu, “dân ơi, dân khờ lắm, không biết đó là tiền của dân đóng thuế hả? Tụi bồi báo khốn kiếp chúng chỉ viết để lừa gạt cảm giác của dân, y như là các thành viên Đảng tự bỏ tiền túi của họ ra mà cho người khác vậy? Tiền đó là tiền mồ hôi xương máu của dân, mà tụi đó nó lấy không hỏi ý kiến dân, còn tự tiện xài như tiền chùa vậy? Dân phải tự lên tiếng mà đòi lại tiền của mình khỏi cái đám cướp ngày đó đi. Đứa nào trong đám đó cũng ngoạc miệng ra tự nhận là đầy tớ của nhân dân, mà tay thì móc hết túi áo lẫn túi quần dân. Đầy tớ kiểu đó, ai không làm được? mấy ông quan Đảng có ngon thì mời mấy ông lên làm chủ đất nước hết đi, để dân làm đầy tớ cho”, là thế nào tên phản động đó cũng bị đám dân yêu Bác, tin Đảng chửi cho tắt đài.

Vậy mà rồi tới lúc đói khổ, không nhận được bất cứ sự trợ cấp nào của Đảng, chính phủ, lẫn nhà nước, thì cũng đám dân đó lại quay qua cầu cứu bọn phản động. Những lúc dầu sôi lửa bỏng, lại cũng chỉ có bọn phản động dám bất chấp mệnh lệnh hành chính của chính phủ, mạo hiểm mạng sống của mình, ra ngoài đường để mà làm công việc cứu trợ.

Nhưng nếu như dân thấy chính quyền nhỏ giọt cho một ít cứu trợ, thì lập tức họ lại trở cờ, họ nói đó, chính quyền có giúp mà. Vậy là dân nghĩ cái cứu trợ đó tự nhiên mà nó tới đó. Nếu không nhờ có cái đám phản động bất chấp sợ hãi kêu gào rền rĩ trên các mạng xã hội suốt mấy tháng, thì e rằng chính quyền vẫn còn bị câm bị mù bị điếc cho tới hết bệnh dịch, mà có khi mãi mãi ấy chứ. Dân tưởng Đảng không ngồi coi phản động nói hả? Coi chừng lầm rồi nhen.

Đảng ra lệnh cho tay sai ngồi coi phản động nói trên mạng, còn nhiều gấp mấy lần phản động ngồi coi họ. Họ dựa vào những gì phản động làm và phản ứng của người dân rồi mới quyết định hành động hay không. Đừng có mà nói phản động làm việc vô ích. Phản động mà không khuyến khích người dân khản cổ kêu gào, thì gần như chắc chắn, Đảng ngậm tiền dân không nhả ra một đồng. Mà phản động người ta đâu có chỉ nói, người ta làm, người ta chìa người ra đỡ đạn thay cho người dân. Dân mà tiếp tục chửi bới họ, nói thiệt, dân chết cũng đáng. Mà nói thiệt, phản động họ cũng cóc cần dân thương, dân còn không tự thương mình thì dân làm sao thương nổi ai, nói gì thương phản động. Phản động họ tự thương mình với thương con cháu mình, nên họ mới nhọc công như vậy.

Khắp thế giới này chắc chỉ có xã hội chủ nghĩa mới có cảnh người được tôn vinh làm chủ, thì khổ hơn động vật, còn làm đầy tớ của nhân dân thì được quyền đeo dây xích vào cổ chủ nhân rồi cột chủ trong xó cho tới chết đói.

Nghe cô hồn nói, giờ người ta cúng người nhà của mình chết trong thời gian đại dịch, bà con chỉ xin: Kiếp sau có đầu thai thì xin cho thân nhân của con được làm đầy tớ của nhân dân ở xứ thiên đàng xã hội chủ nghĩa, đừng cho con làm chủ, con khổ lắm …

Rồi giang hồ đồn, bữa qua cụ tổng nghe nói cái đám khủng bố Taliban tràn vào thủ đô Kabul thề thốt với người dân câu “Chúng tôi làm đầy tớ của nhân dân” như vậy, cụ cười tỏa sáng cả Ba Đình luôn, cụ mời các quan chức đứng đầu, mở tiệc lớn trong phủ, hoan nghênh người anh em Taliban gia nhập câu lạc bộ Các Anh Em đầy tớ cho nhân dân. Coi bộ Đảng sắp sửa cử người qua đó học hỏi kinh nghiệm Taliban đặng còn về lãnh đạo dân chúng, rồi mời đám này qua thăm chính thức quốc gia, lập quan hệ song phương, để chúng thấy tổ quốc ta hùng cường như thế nào.

Đó, có ai còn nói Đảng rảnh nữa không?

Hổng biết tới giờ này, Bà con đã mở mắt ra mà thấy chưa ta? Đảng bận thấy ghê chưa? Đảng viên bận thấy ghê không?

Đảng phải lo trăm công ngàn việc, từ trong nhà ra tới ngoài đường, từ việc của mình tới việc của vợ / chồng người khác, thì đối nội tới đối ngoại, thì thời giờ đâu mà chăm cho bà con nữa?

Bà con có chết vì bệnh, vì đói, chết vì tai nạn giữa đường khi ráng vượt chốt kiểm dịch trên đường chạy xe về quê, thì bà con tự chịu trách nhiệm nhen. Đảng, chính phủ, nhà nước còn nhiều việc quan trọng hơn để làm.

Bà con cứ hết lòng tin Đảng, chính phủ, nhà nước đi nha, nước chúng ta thịnh vượng, hùng cường, lúa gạo chất đầy kho, xuất khẩu đứng thứ hai, thứ ba thế giới, trái cây Việt Nam bán được giá ở Châu Âu, hồ tiêu, cà phê Việt Nam được ưa chuộng ở thị trường nước ngoài, Đảng yêu dân như yêu con, làm sao có chuyện Đảng để bà con chết đói, chịu khổ chịu sở vì không có chỗ ở được.

Đói mấy, Khổ mấy, Nhục mấy, bà con cũng phải giữ lấy cái niềm tin và hy vọng của mình nhen bà con. Mỗi khi khổ quá, bà con hãy biết rằng, Bác Hồ cùng với các cô hồn Đảng, đang cười tươi, luôn luôn dang rộng vòng tay chờ đón các con, các cháu, các em ở nơi cõi Bác Hồ nhen bà con.

Tới lúc đó, bà con ráng đừng kêu phản động với mạnh thường quân nhân dân giúp đỡ nữa nhen bà con!!!

Tác Giả: Từ Liên.

Cô giáo Thơ, bác sĩ Khoa, Trường đua, 17 con cọp, và Bạch thủ pháp sư. Tác Giả: Từ Liên.

Đại dịch này mà kết thúc, đảng có rút vào hoạt động bí mật thì đảm bảo cũng sống được vài đời nữa, nên hai bữa trước, cụ Tổng lên ti vi tuyên bố, cụ không cần tiền nữa đâu, giờ thì danh dự mới quan trọng.

Nhân tháng cô hồn, Đảng sai Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức “Cuộc vận động sáng tác văn học, nghệ thuật chung tay đẩy lùi dịch bệnh Covid-19”. Đảng ưu tiên cho những tác phẩm hài kịch, vì theo đảng, lúc này, dân cần được cười nhiều thì may ra mới quên đói, quên khổ được. Lỡ ai cười được tới tắt thở thì đảng càng vẻ vang, ghi ngay vào trong sổ là người ta chết trong sung sướng, hạnh phúc ở xứ hạnh phúc thiên đàng.

Ai nói cộng sản là thiếu đầu óc hài hước, mặt quan chức lúc nào cũng đăm chiêu như mấy cái tượng đài chiến sĩ, thiệt là chưa biết nhìn xa trông rộng.

Hẳn là ngài Bạch thủ pháp sư, thông qua các AK47, cũng nhận ra cảnh dân chúng trên toàn cõi đã thấm mệt, nhiều người đói khổ có nguy cơ sắp hóa thành cô hồn hết rồi, giờ Đảng phải bày ra trò mới cho dân coi, cho dân nghe, cho đỡ buồn. Dân nghe các ông to bà lớn hứa hẹn đủ thứ trên ti vi mà số người hóa cô hồn vẫn tăng lên vùn vụt, người khá hơn một chút thì tiền tiết kiệm đã xài gần hết rồi mà vẫn chưa biết ngày nào mới có thể đi làm trở lại. Người chết vẫn phải xếp hàng dài ngoài Bình Hưng Hòa để chờ đến lượt được vô lò thiêu.

Đảng vừa mới phát động cuộc thi xong, lập tức cô hồn khắp mọi tòa báo ùn ùn hưởng ứng, bài nộp về các tòa soạn nhiều đến nỗi các biên tập viên đọc không nổi, vậy mới thấy cái dân tộc này họ đoàn kết và yêu đảng tới cỡ nào. Mà nghe giang hồ đồn, chỉ ngồi đọc kịch bản và cười thôi cũng đã chết mấy biên tập viên mỗi ngày rồi.

Đảng lựa ra vài bài nhắm chừng làm dân cười nhiều nhất đăng lên thăm dò ý kiến, kiểu này thì dân Đông Lào không chết vì cười nhiều, cũng chết vì nổ não. Có bao nhiêu thuốc nổ ở trong mấy cái kho của bên quân sự, Đảng mang ra cho cô hồn xài hết trong tháng này, hy vọng nó phát nổ sẽ thổi bay cái con virus Vũ Hán ngược lại qua xứ Tàu.

Đảng chia kịch ra làm nhiều thể loại cho hợp với “khẩu vị” khác nhau của thành phần cư dân trong nước.

Trước tiên là kịch bản dành cho các cháu thiếu nhi. Các cháu còn nhỏ, tâm hồn trong sáng, yêu thương động vật nên Đảng cho đăng kịch bản Đảng giải phóng 17 con hổ được nuôi nhốt trong khu dân cư ở quê Bác Hồ. Mỗi con hổ này đã nặng từ 200 kg trở lên. Các cháu thiếu nhi là cháu ngoan Bác Hồ, nghe xong, hết khóc về xúc động trước tình yêu động vật của Đảng, lại cười nắc nẻ y như lúc cùng bạn bè đi giựt cô hồn [ Cái này ai ở miền Nam thì hiểu nè ], vì nhờ ơn Đảng mà 17 con hổ được đưa từ chuồng nhà dân qua chuồng nhà Đảng.

Các cháu đoàn viên thanh niên, có hiểu biết hơn một chút, đọc kịch bản xong, thì thấy lo lắng cho sức khỏe của đảng, 17 con hổ được nuôi nhốt, thế nào cũng có lúc nó gầm gừ, nó tỏa ra cái mùi rừng rú hoang dã, thức ăn, chất thải nó ăn vô rồi thải ra một ngày nhiều gấp bao nhiêu lần số người trong gia đình, thế mà chính quyền địa phương xứ Đông Lào, vốn nổi tiếng “tai vách mạch rừng”, mà tuyệt không một ai nghe thấy gì, ngửi thấy gì, nhìn thấy gì, sức khỏe của đảng viên quê Bác thật là có vấn đề, chắc ngày đêm họ nằm trên đống giấy polymer màu xanh có hình Bác nên đầu óc họ mụ mị hết rồi.

Tuy nhiên, các cháu lớn này cũng phấn khởi, kết cục thì cái đám đối xử với động vật hoang dã tàn nhẫn cũng sa lưới, làm sao qua mắt được đảng tài tình, các cháu nói với nhau, đảng biết mấy gia đình đó buôn hổ từ khi hổ là hổ con kìa, chẳng qua, đảng làm bộ không biết thôi [ Chỗ này li kỳ như phim điệp viên 007 vậy ], rồi chờ tới lúc hổ đủ cân nặng để nấu cao, đảng úp sọt một phát, thế là có ngay ít nhất 8 em hổ đang khỏe mạnh lăn đùng ra chết, các chiến sĩ tham gia giải cứu hổ được nhà nước hết lời khen lợi, và được nhận tiền thưởng, lên ti vi, báo đài cho dân chúng biết cái tình yêu thiên nhiên hoang dã của đảng.

Mà nói gì thì nói, đang lúc có dịch bệnh covid như thế này, cụ Tổng lại ốm yếu, cao hổ cốt là cần cho các lãnh tụ lắm. Binh nhì Đô chết, họ bắt phải mang đi chôn liền, không kịp cả khám nghiệm tử thi, vì hình như binh nhì Đô không nấu cao được, còn hổ chết thì được Đảng bỏ vào tủ lạnh, chờ tới ngày nấu cao. Đảng yêu thiên nhiên và tôn trọng động vật đến thế thì còn ai mà không nể Đảng, mà dân Đông Lào cũng đừng quên là Đảng có hẳn đạo luật Cấm đánh đập, hành hạ, bỏ đói động vật rồi đó nha [ https://luatvietnam.vn/tin-van-ban-moi/tu-01-01-2020-cam-danh-dap-hanh-ha-bo-doi-cho-meo-186-23259-article.html ]. Binh nhì Đô xui vì ảnh không phải là động vật, nên ảnh không được luật bảo vệ thôi, có gì mà đám phản động làm lớn chuyện. Ai lại đi so sánh con người với động vật quý hiếm như vậy, thiệt là thiển cận.

Sau khi các cháu thiếu nhi đã được “mãn nhãn” với màn giải cứu hổ vẻ vang, đảng bắt đầu chăm lo tới các bà nội trợ yêu phim ngôn tình, nhất là phim ngôn tình Hàn Quốc, Ấn Độ, lấy đi nước mắt của hàng chục triệu người dân Việt Nam mỗi tối, nghe nói có cô đã lên giường ngủ với chồng còn sụt sịt “Oppa, oppa – có nghĩa là anh ơi, anh hỡi trong tiếng Hàn”.

Đảng cho đăng kịch bản của ông phó tổng biên tập của báo pháp luật, đại diện cho Hiến pháp và luật pháp Việt Nam trừ tự do, trừ hạnh phúc, là ông Nguyễn Đức Hiển. Vở kịch này tưởng tượng ra câu chuyện bác sĩ Khoa rút ống thở của người mẹ đang điều trị covid để chuyển qua cho người mẹ mang song thai sắp đẻ, sau khi rút ống thở khiến thân mẫu mình tắt thở , bác sĩ tỉnh queo dắt thai phụ vào phòng mổ, mổ, rồi lôi ra hai cháu bé. Điều kỳ lạ là hai cháu bé này vừa ra đời, một đứa đã to bằng trẻ em 4 tháng tuổi [ Một cháu được bác sĩ Cao Hữu Thịnh mổ lấy ra khỏi bụng mẹ từ ngày 1/4/2021, cháu còn lại được mổ lấy ra vào ngày 21/7/2021: https://vietnamnet.vn/vn/suc-khoe/su-that-buc-anh-hai-em-be-sinh-doi-trong-vu-bac-si-rut-may-tho-764019.html ].

Mà chuyện này thì cũng có gì lạ đâu, đất nước này có truyền thuyết Thánh Gióng nổi tiếng thế cơ mà. Tháng Gióng sanh ra cả mấy năm cũng không nói không cười, chỉ nằm khóc oe oe, rồi chỉ trong mấy ngày vụt lớn thành chàng trai khôi ngô tuấn tú đó thôi, chuyện em bé mới sanh ra đã lớn như vậy thì có gì mà lạ. Nghe giang hồ đồn, chuyện này khiến cho cô hồn sợ chạy mất dép ở mấy cái bệnh viện Việt Nam, còn mấy tòa soạn báo thì dù đã bày đồ ra để cúng cô hồn mà không cô hồn nào dám bén mảng tới mà giựt nữa, nội công của lão Hiển này thâm hậu còn hơn các nhân vật võ lâm trong tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung nữa.

Mà tính ra cô hồn của cái xứ này nó vẫn còn tỉnh táo thiệt đó chớ, tỉnh táo hơn cụ tổng và hơn mấy chục triệu dân Việt là cái chắc. Ngay từ lúc cô hồn nó nghe bác sĩ Khoa rút ống thở của mẹ mình ra để cứu thai phụ là nó sợ toát mồ hôi rồi. Má ơi, cái thứ cô hồn gì mà má mình nó còn không thương, nó nỡ rút ống thở cái pặc một cái không cần suy nghĩ, thì chắc nó phải đứng vào hàng ông tổ của các thể loại cô hồn rồi, mà nó còn dã man tới độ, má nó đang bị covid mà nó dám dí cái ống thở đầy virus đó vào mũi cái bà sản phụ đang mang song thai, thì đích thị là nó muốn xử tử luôn cả ba mẹ con bà ấy rồi. Các cô hồn bèn rỉ tai nhau: Cô hồn kiểu này thì nên tránh xa, không chơi, mình đã là cô hồn rồi mà gặp thằng cô hồn này, nó dám xé mình ra làm mình hồn xiêu phách lạc, khỏi làm cô hồn mà về lại nhân gian thăm con cháu nữa.

Vậy mà trên khắp các trang mạng Việt Nam, người ta chứng kiến đồng bào khóc như mưa như gió cho tấm chân tình của bác sĩ Khoa. Mọi người đinh ninh là phó tổng biên tập báo Pháp Luật cơ mà, làm sao mà đưa tin vịt được. Ôi, cái tinh thần xã hội chủ nghĩa nhân ái bao la, ngày xưa cải cách ruộng đất thì tố cha, tố mẹ, sau đó hòa bình thì bạn bè đồng chí tố nhau tội tham nhũng chia không đều, tội quấy rối tình dục trong các công sở mà không chịu chia sẻ “hàng” với nhau, sau nữa thì tới rút ống thở của thân sinh mình, cái thứ đạo đức hy sinh sự sống của người khác cho danh tiếng của bản thân mình như thế này, trên địa cầu này, hiếm ai vượt nổi cộng sản. Cộng sản thách thức cả thế giới, đố chúng mày dám vượt bố mày về lĩnh vực này đấy, có ngon chúng mày làm đi, chúng mày không làm được thì chúng mày là đồ hèn, ngậm miệng lại cho bố mày đi tìm ai trong đống họ hàng thân hữu đang có ống thở để bố mày rút tiếp. Bênh dịch còn dài dài mà.

Nghe đồn là sau một đêm khóc lóc ướt hết mấy chục triệu cái nệm vì bác sĩ Khoa, sáng hôm sau, sau khi vua tin vịt VTV đưa tin đính chính, các bà các cô lại được một mẻ cười rũ rượi, lũ lượt mang nệm ra ngoài phơi cho nó khô, để chờ tập tiếp theo mà còn có chỗ để khóc tiếp.

Giải quyết xong đám phụ nữ mê phim ngôn tình, Đảng thấy đám du côn du đãng vẫn ngẩn ngơ. Cái đám này dễ bị kích động, cực kỳ nguy hiểm, cái đám này hiện tại đang đói ăn, Đảng mà không chăm lo tới chúng, là chúng xúi người ta nổi loạn, chúng nó dám vác rựa chặn đường cán bộ để xin tí huyết cho bữa tối lắm. Đảng phải sáng tác cái kịch gì cho chúng coi để chúng dịu lại.

Đám này, trình độ có hạn, trí tưởng tượng thì phong phú, lúc nào cũng thèm khát những thứ mà mình không có, ăn ngon, mặc đẹp, ở nhà biệt thự, có hầu gái xinh xắn phục vụ cơm bưng nước rót … Nhu cầu của chúng nhiều tới nỗi cụ Tổng và anh Nguyễn Trọng Nghĩa giữ chức trưởng Ban Tuyên Giáo Trung Ương đau đầu tới mấy ngày để duyệt kịch bản.

Rồi một bữa, cụ Tổng đột nhiên tỉnh táo, cụ gọi anh Nghĩa thều thào: Này, Nghĩa, mình còn một con ngựa nhốt trong trường đua gì đó đó, tháng trước nó làm càn quá mày rọ mõm nó lại làm nó khóc hết nước mắt đòi bỏ rừng Đông Lào qua xứ khác ở, giờ mày coi có tháo rọ cho nó ra đua được chưa? Nó ngựa nòi đấy, đáp ứng đủ mọi yêu cầu của đám du côn du đãng ngoài kia.

Cả hai vỗ đùi hỉ hả. Anh Nghĩa gọi tới trường đua chỉ đạo chăm sóc ngựa thiệt tốt, anh bảo kê cho, nguyên tháng cô hồn này ngựa được thả tự do, đua cho thỏa thích.

Bữa sau, đang giữa mùa Covid, nhưng lập tức trường đua nổi tiếng nọ được đặc cách khai trương trở lại, mỹ nhân trường đua được trang điểm, văn vận đẹp đẽ, được ngồi trong phòng máy lạnh xa hoa tráng lệ còn hơn phủ Thủ tướng, máy quay bốn phía, đội ngũ nhân viên vây quanh phục vụ. Mỹ nhân mặt mày xinh đẹp, mà chửi thì hay gấp mấy lần người ta hát Ố Pê Rà ở nhà hát Con Sò, giọng lúc trầm lúc bổng mê hồn, có đoạn đến cao trào, mỹ nhân ngân nga gào thét tới độ giang hồ lo mỹ nhân ngất xỉu thì hết được coi kịch hay. Mà từ ngữ mỹ nhân chửi mới thánh thót làm sao, nào là máu với gươm đao, nào là chất thải với hầm cầu, nào là các thể loại bộ phận sinh dục. Mỹ nhơn chửi từ nghệ sĩ khốn nạn tới danh y lang băm, từ phản động trong nước tới phản động ngoài nước. Thiệt là khó có người nào đại diện cho nền văn hóa xã nghĩa mà xứng đáng hơn mỹ nhân nữa. Ai mà dám đòi xứng đáng hơn, mỹ nhân chửi cho dập mặt, người ta nghèo, mỹ nhân chửi, người ta đẹp, mỹ nhân chửi, người ta có học, mỹ nhân cũng chửi.

Mỹ nhân vừa chửi, vừa cười, vừa khóc, hay hơn cả bi lịch lẫn hài kịch. Nghe cô hồn đồn rằng thấy kịch hay quá, chúng du hành qua tận Tây Phương thỉnh hương hồn hai cụ Aristophane [ Cha đẻ của Hài Kịch Hy Lạp], với cụ Uy-li-am Sếch-xpia [ Kịch gia viết bi kịch nổi tiếng ] về coi kịch, mà nghe nói hai cụ cũng sợ chạy mất dép về lại bển rồi. Các cụ nói với chúng là các cụ có sống lại mà cạnh tranh thì đảm bảo sân khấu kịch của các cụ cũng phá sản, làm gì các cụ có cửa mà cạnh tranh với trường đua.

Đó, có còn ai nói cụ Tổng yếu sắp chết nữa không, hớ to rồi nhen, ngoài cái đầu bạc với dáng đi xiêu vẹo, thì cụ vẫn là một cung thủ kiệt xuất, cụ bắn một mũi tên trúng hai con chim, cụ ngồi nghe mỹ nhân chửi mà phải uống hoạt huyết dưỡng não với tâm xuyên liên liên tục để đề phòng cười nhiều quá mà đứt luôn mạch máu não, biến thành cô hồn. Mà mới đầu tháng cô hồn, còn nhiều kịch hay chưa coi, cụ chết sớm uổng lắm. Giang hồ đồn cụ đang hối mấy đứa giữ cọp trong tủ lạnh, luyện cao lẹ lên cho cụ uống mà còn có sức coi hài kịch. Trong khi cụ cười chảy nước mắt, thì đám giang hồ được mỹ nhân an ủi về tình yêu nước, sự đoàn kết của dân tộc, về việc chính phủ sẽ lo cho toàn dân, các bạn đừng có lo lắng gì, lỡ có chết đói chết bệnh thì cả mai táng lẫn hậu táng chính phủ sẽ lo lắng cho, tro cốt mang về tận nhà, vì tro này không làm cao được, nên chính phủ không có thu giữ mà làm gì cho chật phủ. Giang hồ xúc động tới nỗi lòng yêu nước trỗi lên vùn vụt, tình nguyện hạ hết đao kiếm xuống, không dám quấy nhiễu các cán bộ yêu nước đang làm nhiệm vụ nữa.

Dẹp xong cái đám du côn du đãng rồi, Đảng lại thấy cái đám trí thức bày đặt lên tiếng phản đối chính phủ này nọ, nhất là từ khi bệnh dịch tới giờ, chúng không chịu để đảng yên thân ngày nào. Bác sĩ này thì kêu trả trẻ em bị Covid về cho gia đình chăm sóc, ở đây chúng nó sẽ chết vì không có gì ăn, uống, không được ôm ấp, yêu thương, chăm sóc, giải tán F0, F1 không có triệu chứng khỏi bệnh viện đi, vì chỗ nào cũng quá tải quá rồi, kêu gọi người dân chỉ coi Covid như cúm mùa thôi, đừng quá sợ hãi, lại có bác sĩ dám kêu gọi dân cảnh giác với vaxin Tàu cộng nữa chứ.

Ơ, mấy đứa này láo, phản động, các hãng dược cổ truyền đang ăn lên làm ra với 12 loại thuốc phòng chống Covid, chỉ riêng nâng khống giá máy thở cũng đã thu được mấy chục đến mấy trăm triệu một cái, lại còn cái đám sản xuất Tây dược thì khỏi chê, một liều thuốc trị Covid mới nhập về trừ vốn đi đã lời trên 300 đô la Mỹ rồi, mà tới bao nhiêu triệu liều, tha hồ mà hút máu dân, lại còn bình oxy, khẩu trang y tế, thuốc cảm cúm, các thể loại. Mà căng nhất là mấy cái hợp đồng đã ký với bạn thân Tàu cộng, mỗi hợp đồng cả chục triệu liệu Sinopharm, rồi Vero Cell, rồi Sinovax, bây giờ chích cho ai, rồi còn Nanovax sắp sửa được tung ra thị trường nữa. Rồi tiền người dân đóng góp cho quỹ Covid mấy chục tỉ rồi, giờ không lẽ lấy ra khỏi ngân hàng? Rồi ai mà người ta sợ Đảng nữa, tin đảng nữa? Có đại dịch thì người dân mới sợ Đảng chứ.

Đại dịch này mà kết thúc, đảng có rút vào hoạt động bí mật thì đảm bảo cũng sống được vài đời nữa, nên hai bữa trước, cụ Tổng lên ti vi tuyên bố, cụ không cần tiền nữa đâu, giờ thì danh dự mới quan trọng.

Hết đám bác sĩ trong rồi ngoài nước cứ ra rả trấn an dân chúng, rồi thì các kinh tế gia, các nhà giáo dục, nay đưa ra sáng kiến này, mai đưa ra sáng kiến khác để vực dậy kinh tế, giáo dục nước nhà sau đại dịch, mấy người hoạt động tình nguyện thì đăng tin dân nơi này dân nơi kia khổ, mấy nhà hoạt động dân chủ thì đăng tin thách thức Đảng miễn tiền điện, tiền nước cho người dân, đúng là loạn. Cụ Tổng suy nghĩ một đêm, bạc hết cả cái đầu, nhuộm không sao kịp được, còn kinh hơn cả ông Ngũ Tử Tư, dưới trướng của Ngô Phù Sai hồi xưa [ ông này nghe đồn suy nghĩ một đêm bạc nửa mái đầu ]. Giang hồ đồn cụ giận đỏ mặt tía tai, mà do cụ yếu quá nói không ra hơi, nên không ai nghe rõ cụ chửi gì nữa.

Trẻ em, phụ nữ, giang hồ, cụ xử êm cả rồi, còn cái đám trí thức rởm đời này, làm cụ đau đầu, chúng không thích động vật hoang dã, chúng cũng chẳng thích truyện ngôn tình, chúng cũng không có tiền đi đua ngựa ngoài trường đua, chúng cứ ra rả, chúng tôi thích tự do, dân chủ, chúng tôi thích quyền làm người, quyền tự do, ngôn luận… Kịch bản nào đưa ra chúng cũng không chịu cười, không những vậy, chúng còn kéo bè kéo cánh vào rủa xả, lôi cổ nhà báo viết kịch hay ra khỏi các tòa soạn, lôi cổ quan chức ra khỏi mấy cái lỗ chơi gôn, lôi cổ anh cán bộ nào đó nhân lúc dịch bệnh, quán karaoke, bia ôm đóng cửa hết, ảnh ngứa ngáy khó chịu nên làm liều sàm sỡ nhân viên dưới quyền ngay trong công sở, người ta xài xe hơi đi từ xứ nghèo khổ Tam Kỳ băng qua các trạm kiểm dịch tới sân bay Nội Bài, đưa con đi Mỹ du học trong mùa dịch bệnh, khổ cực vậy mà nó cũng không tha nữa. Rồi đám đó đăng bài than xứ này bữa nay dân phải để cho rau ung thúi vì không ai mua, chỗ kia dân bán gà có 5,000 đồng tiền Hồ 1 ký mà vẫn ế, lúa đã thu hoạch lên đến hàng chục hàng trăm tấn không ai thu mua, không có chỗ chứa, đang bị mục nát, trong khi chỗ nọ dân chết đói, chết bệnh, ngủ ngoài ống cống ở công trường xây dựng… Cái đám lắm lời này còn cấu kết với cái đám phản động ngứa mắt ngứa miệng bên hải ngoại, càm ràm ngày đêm đinh tai nhức óc. Tụi bây có muốn Đảng sống nữa không vậy trời?

Sau khi gấp rút ra lệnh viết riêng kịch bản cho đám trí thức nửa mùa này, Đảng đã tóm được vài “con phản động” để xài dần dần cho tới hết dịch bịnh.

Cô giáo Thơ chắc chỉ là một con tốt lớn hơn những con tốt khác chút éc thôi. Nhưng dù sao cô cũng là giảng sư của một trường đại học có tên là đại học Thủ Cựu, do các Đảng viên kỳ cựu có bằng tiến sĩ Đảng, lý luận Đảng các kiểu làm lãnh đạo. Cô Thơ là giảng viên tiếng Anh, dạy văn hóa Phương Tây đã 20 năm, chắc chắn tuổi cô không còn quá trẻ, và cô cũng hẳn cũng có am hiểu về hiện tình đất nước, cô cũng dư khả năng để đối chiếu nền văn hóa xã nghĩa sáng lạn tới chói lòa của Đảng với nền văn hóa nhân bản của các nước phát triển. Nhưng, như cô chia sẻ trên Facebook của mình, cô đã lỡ cháy hết mình như một ngọn đuốc [ yêu tự do ] nên cô đã rơi vào cái bẫy do học trò tay sai của Đảng giăng cho cô.

Giang hồ nghe đồn tới giảng viên đại học có ăn có học mà còn phản động thì bu đen bu đỏ vào các trang mạng để hóng tin tức. Mà đọc tới đỏ con mắt thì cũng chẳng thấy chỗ nào cô giáo nói là phản động cả. Cô giáo chỉ nói “Có dân nước nào chạy 1,500 cây số để về quê. Như vậy là hệ thống an sinh xã hội của chúng ta quá kém đúng không? Cô cảm thấy rất nhục nhã về điều đó… ”.

Các cô hồn đọc xong bản tin, bảo nhau: Á, [ Tiếng Đan Mạch ], tao tưởng phản động thế nào chứ phản động kiểu này, con nít cấp I nó cũng nói được, đi mà hỏi em bé chín ngày tuổi ngồi trên xe gắn máy về quê với ba mẹ á, nó mà biết nói chắc nó cũng chửi như thế từ lâu rồi. Một cô hồn khác nói, thì cái này là hài kịch mà, thôi, bỏ đi, cười hổng nổi, cụ Tổng già rồi, lẩm cẩm, sáng tác thua con nít. Vậy mà bày đặt an ninh với công an vào cuộc. Mà thôi, mình là cô hồn thì lo đi giựt cô hồn đi, cái đám công an với an ninh đó nó mà tới nhà người ta trước mình, nó giựt hết phần mình, không còn gì mà ăn đâu, năm nay người ta đã nghèo rồi, người ta cúng ít, mà công an thì đi dạo ngoài đường còn đông hơn cả cô hồn. Rồi các cô hồn bỏ đi.

Nhưng chắc cũng có nhiều trí thức nửa mùa coi xong hài kịch này, cũng được một mẻ cười sảng khoái. Đảng đem cả an ninh với công an ra hù dọa một cô giáo yếu ớt, Đảng sa thải người ta không được luật lao động cho phép, chỉ vì một câu nói thật thà tới nỗi mà tới những người dân ít hiểu biết thời sự nhất, có nghe thì cũng hiểu liền. Đảng muốn người ta nhìn mình như mặt trời chân lý chói chang, nhưng làm gì có người bình thường nào trên thế giới này mà nhìn được cái thứ mặt trời đó. Giang hồ ở Việt Nam liền nhái bài hát “Mặt trời dịu êm của nhạc sĩ Dương Thụ thành “Nhìn mặt trời mà không chói lóa, là hội người Mù Việt Nam, Nhìn tiền hoài mà không thấy chán, là hội người nghèo Việt Nam, Chém gió hoài mà không thấy ngán, là hội người khùng Việt Nam, Mặc quần đùi mà không thấy ngắn, là hội người lùn Việt Nam”… nghe vui gần chết, cười muốn rụng rún.

Cô Thơ này cổ là người bình thường, cổ không thể nhìn thẳng vào mặt trời, cổ không có muốn bị mù lòa, cổ sẽ không nhìn vào đó. Suy ra là chỉ có đảng viên với lãnh tụ đảng mới dám nhìn mặt trời thôi, chắc vì họ mù bẩm sinh rồi. Nếu không phải vậy thì họ đích thị là loài đười ươi, như truyền thuyết về “Đười ươi giữ ống” vậy [ Bạn nào chưa biết chuyện này thì lên mạng tìm đọc nhen ], ngày nào cũng ngửa cổ lên nhìn mặt trời cười một cách hả hê tít cả mắt, chờ cho đến khi mặt trời lặn nó mới ăn thịt con mồi, nghĩ mình làm vậy thì mấy con mồi sợ mình. Ui chao, trí tuệ của đười ươi mới thật vĩ đại làm sao, bị tuyệt chủng dần dần cũng đáng rồi.

Những người mà đã có ý thức được về việc mình đang sống ở cái xứ sở mà ngày ngày ăn đồ độc hại, uống nước nhiễm hóa chất, hít thở không khí ô nhiễm, không có tự do, thì những người đó còn biết sợ cái gì nữa? Bác Tổng ơi, kịch này của bác chắc phải viết lại cho nó hay hơn, có nhiêu đây thì bác đe nẹt được ai?

Để con chỉ cho bác, bác muốn chiến đấu với đám phản động hữu hiệu, thì bác phải lôi cổ cái đám con cháu đảng viên nhà bác đang du học bên trời Tây về nó viết cho bác. Trong đám đó may ra có đứa học hành được đàng hoàng, có chút tư chất rồi, thì nó tiến hóa thành người được, nó may ra mới có khả năng viết bài mà đối lại với phản động, chứ bây giờ phản động người ta học hành tử tế, người ta có nhận thức đầy đủ, mà bác toàn kêu những AK47 với dư luận viên ra đấu, toàn xài các từ ngữ chỉ các cơ quan bài tiết với các bộ phận sinh dục ra mà đấu thì con e rằng bác có nhuộm tóc thêm trăm lần nữa nó cũng bạc thôi bác ơi. À, mà tới đây, con thách bác với Đảng của bác lôi được cái đám con em Đảng viên đó về lại Việt Nam đó bác? Bác làm được vậy, con cắn rơm cắn cỏ xin gia nhập đảng của bác.

Mà trên thực tế là, ngoài hài kịch về cô giảng viên Thơ, họ còn nhiều vở hài kịch về phản động các xứ khác trên thế giới lắm. Đọc nhiều chuyện về lí lịch của chính bản thân mình, được các kịch gia mùi mẫn của Đảng viết ra, mà mấy tên phản động đang sống ở hải ngoại cũng phải cười tới té ghế, ngay lập tức mua nhang đèn và đồ cúng cô hồn gởi về Việt Nam cúng Đảng và cúng ông Tổng… Nghe giang hồ đồn, máy bay từ hải ngoại bay về VIệt Nam giờ chỉ toàn chở đồ cúng cô hồn về thôi…

Rồi, mới cách đây mấy bữa [ 11/8/2021 ], dân tình đang giờ ăn trưa, ăn tối, mở thời sự để hóng tin tiền cứu trợ đi tới đâu rồi, bao giờ tới chỗ mình, đột ngột Bạch thủ pháp sư xuất hiện, lên sóng, tuyên bố hùng hồn “Tiền bạc lắm làm gì, chết có mang theo được đâu; Danh dự mới là điều thiêng liêng, cao quý nhất!”.

Nghe giang hồ đồn có dân tình mới đang sắp chết đói nghe pháp sư nói mà cười rũ rượi tới độ chết thiệt luôn. So ra với các nguyên thủ quốc gia trên thế giới, chắc không ai qua được pháp sư về nghệ thuật hài hước, cô hồn nhìn nhau thắc mắc, vào lúc này pháp sư vẫn hài hước như vậy thì bao giờ cụ mới chết được nhỉ, cho dân tình người ta mừng. Các cô hồn chỉ dạy nhau, cụ mà chết thi chúng sẽ không bao giờ đi giựt cô hồn của nhà cụ, nghe nói đồ đó toàn là đồ tẩm thuốc độc với máu của dân lành, ăn vào không thành tàn tật, mù lòa, dặt dẹo, thì cũng ngộ độc lăn ra mà chết đầu đường xó chợ có ngày, hồn xiêu phách tán. Đúng là đã làm cô hồn rồi mà ở cái xứ này cũng không yên thân nữa.

Còn một số vở kịch khác, do không mấy xuất sắc, nên xin phép không đề cập tới ở đây nhen bà con.

Dù sao thì cuộc vận động sáng tác văn học, nghệ thuật cũng mới chỉ bắt đầu thôi, bà con đừng nóng vội…

Mấy cái vở hài kịch này là Đảng mới đưa ra thăm dò dư luận thôi, kịch bản hay còn chưa tới đâu nhen bà con …

Trong khi chờ hóng tiền cứu trợ với lương thực cứu đói, bà con chịu khó coi đỡ hài kịch cho đời nó dzui vậy…

Tháng này kêu bằng tháng cô hồn nha bà con, nên bà con ráng giữ gìn sức khỏe, đảm bảo là tháng này cô hồn sẽ ghé qua nhiều nhà nghen bà con… Năm nay bà con nghèo khổ nên nếu bà con sợ không có gì mà cúng cô hồn, nếu sợ cô hồn buồn tình làm hại bà con, Bà con nhớ réo tên Bạch thủ pháp sư nghe bà con, nghe nói pháp sư thiêng tới nỗi cô hồn cũng phải bỏ chạy đó.

Thương yêu bà con nhiều lắm nhen.

Tác Giả: Từ Liên.

Phần 5/5: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Phần cuối. Tác Giả: Từ Liên.

Tuy nhiên, tôi tin rằng bất cứ một người nào dù sống ở đâu trên trái đất này, tự nhận mình là người Việt Nam, đều có chung mong đợi một ngày đất nước phát triển, nền dân chủ được thực thi rộng rãi trong đời sống xã hội ở Việt Nam. Khi đó, những người Việt Nam có thể ngẩng cao đầu bước đi với niềm tự hào là công dân của một quốc gia tự do, có thể tự tin cầm một cuốn hộ chiếu trên tay mà không cảm thấy hổ nhục, có thể tự giới thiệu mình là người Việt Nam mà không cảm thấy ngại ngùng trước con mắt của bạn bè thế giới.

Ở những phần trước, tôi đã tóm tắt và phân tích những lập luận của GS Haykek về 4 luận điểm : (1) Sự xuất hiện của các thể chế độc tài toàn trị và Bản chất của những con người lãnh đạo ở những thể chế đó; (2) Tại sao các thể chế độc tài toàn trị không bao giờ có thể thực hiện lời hứa hoang đường của họ về tự do và thịnh vượng cho những cộng đồng dân cư mà họ cai trị; (3) Người dân của những nước sống dưới chế độ độc tài cũng cần tự chịu trách nhiệm vì đã cho phép chế độ độc tài cai trị và áp bức họ; (4) Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa phát xít chỉ là hai tên gọi khác nhau của Chủ nghĩa độc tài toàn trị.

Trong phần cuối cùng này, tôi xin tóm tắt và phân tích những GỢI Ý của GS Hayek về những biện pháp mà những người dân đang sống dưới chế độc độc tài toàn trị có thể suy nghĩ, cân nhắc, để tự quyết định xem mình có nên rời bỏ Con Đường Nô Lệ để xây dựng Con Đường Tự Do cho bản thân mình và dân tộc mình.

Cá nhân tôi cho rằng đây là một trong những chương quan trọng nhất của tác phẩm Đường Về Nô Lệ. Nếu như vì một lý do nào đó mà chương này đã bị khiếm khuyết đi, thì có lẽ tác phẩm này sẽ không được coi là hoàn thiện, có ý nghĩa sâu sắc, và khó có thể có sức sống mãnh liệt như vậy trong suốt 80 năm qua.

Dù chỉ là những “gợi ý” từ một trí thúc lỗi lạc, nhìn từ góc độ của một người Phương Tây, và đối tượng nhắm tới là những quốc gia Châu Âu thời kỳ hậu Thế Chiến Thứ II, nhưng tôi tin rằng mỗi người dân trên thế giới này đều có thể tìm ra một vài điểm đồng điệu nào đó. Từ góc độ của mình, từ hoàn cảnh của mình, từ thực tiễn xã hội của mình, mỗi người có thể sẽ tìm ra những cách thức riêng để đóng góp cho nền tự do của bản thân, cũng như cộng đồng và dân tộc.


Từ thuở hồng hoang, con người đã phục tùng những hiện tượng tự nhiên mà họ tin rằng do những đấng siêu nhiên toàn năng tạo ra. Họ đã tôn sùng những vị thần mà họ không thể thấy hình dạng, nhưng họ xem sự hiện diện của các Ngài là một phần trong cuộc sống thường nhật của họ. Và cũng không thể chối bỏ rằng, sự phục tùng này trong buổi đầu, đã tạo điều kiện cho sự phát triển của nền văn minh. Sự sợ hãi những lực lượng Tự nhiên đầy quyền năng đó, khiến con người biết cách tôn trọng thiên nhiên, lòng sợ hãi sự trừng phạt của đấng Siêu Nhiên làm nảy sinh những quy chuẩn đạo đức và phép tắc trong cư xử giữa con người với nhau trong xã hội loài người, thúc đẩy họ thực hiện những bổn phận và nghĩa vụ của mình đối với gia đình, cộng đồng, và môi trường tự nhiên.

Nhờ sự phục tùng như thế mà hằng ngày chúng ta mới có thể đóng góp một phần sức lực của mình để xây dựng nên những chuyện thần kì mà không một người nào trong chúng ta có thể hiểu hết được” [ Trang 457 ].

Mặt khác, GS Hayek cũng lập luận rằng rằng, ngay kể trong các xã hội nguyên thủy sơ khai như vậy, vẫn đã xuất hiện những cá nhân sáng suốt và có tư duy vượt khỏi bầy đàn, khỏi cộng đồng, những người đã có khả năng nhìn xuyên qua những tấm màn bao phủ các hiện tượng tự nhiên khủng khiếp và hư ảo đó, tiếp cận được phần nào sự thật. Họ đã đoán được những dấu hiệu “nổi giận” của tự nhiên nhờ vào nhiều dấu hiện lặp đi lặp lại ngày càng rõ ràng trước khi những hiện tượng này xảy ra. Họ lờ mờ hiểu được những nguyên lý khoa học ở phía sau sự thịnh nộ của các lực lượng Siêu Nhiên này. Tuy vậy, trong bối cảnh tri thức của phần lớn con người sống trong các xã hội nguyên thủy còn quá hữu hạn, việc “giải thích một cách duy lý về sự cần thiết phải phục tùng các lực lượng, mà cơ chế hoạt động của nó ta vẫn chưa nắm được một cách cụ thể là việc cực kì khó, [ khó hơn rất nhiều so với việc khuyên người ta ] là phục tùng chúng” [ Trang 461 ].

Những con người nguyên thủy nhưng sáng suốt, và có đầu óc nhìn xa trông rộng đó, họ biết rằng sớm hay muộn gì cũng đến một ngày con người sẽ tích lũy được nhiều kinh nghiệm hơn nhờ học hỏi những thế hệ trước, và ngày đó, họ có thể truyền lại những gì họ hiểu biết. Trong khi chờ đến lúc đó, họ đã âm thầm làm những công việc của mình, như gieo những hạt mầm vào lòng đất và thí nghiệm những điều kiện sống phù hợp nhất với hạt mầm đó, chờ một ngày chúng nảy nở, tái sinh thành những cái cây mạnh mẽ.

Xem xét từ khía cạnh lịch sử đó, Hayek rút ra kết luận rằng, NẾU NHƯ MỖI NGƯỜI CHỈ BIẾT ĐI THEO ĐÁM ĐÔNG, HOẶC NGỒI YÊN, VÀ KHÔNG CHỊU LÀM BẤT CỨ VIỆC GÌ KHI ANH TA CHƯA HIỂU BIẾT ĐƯỢC SỰ CẦN THIẾT CỦA NÓ, THÌ CHẮC CHẮN XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI ĐÃ KHÔNG THỂ TIẾN XA ĐẾN NHƯ NGÀY HÔM NAY … [ Trang 461 ]. Đôi khi, chính thái độ không chịu phục tùng những điều kiện tự nhiên áp đặt lên chúng ta, mà loài người đã từng bước một, giải phóng mình khỏi thế giới mê muội và tăm tối, dò dẫm đi về phía ánh sáng. Nhờ vào sự cố gắng bền bỉ không ngừng của những cá nhân như thế trong suốt nhiều thế hệ, mà con người đã đạt đến một hoàn cảnh sống đáng ngưỡng mộ như thời điểm đầu thế kỷ XX.

[ Ở đây, tác giả cũng khẳng định rằng, những khía cạnh tốt của việc thực hành tôn trọng thiên nhiên [ dưới dạng một tôn giáo hoặc một hình thức thờ cúng ] và việc duy trì những giá trị đạo đức nguyên thủy, vẫn giữ nguyên giá trị trong đời sống loài người hiện đại. Việc xem thường, xuyên tạc, loại bỏ những giá trị luân lý, đạo đức của quá khứ, vốn đã được chứng minh qua nhiều giai đoạn thăng trầm, có khả năng sẽ đưa tới sự hủy diệt của bất kỳ một nền văn minh nào trong thời kỳ hiện tại ].

Tuy nhiên, cũng thật đáng thất vọng, vì bất chấp những “Khát khao giải thoát khỏi những trói buộc mà con người đã nhận thức được, song người ta lại không hiểu rằng những trói buộc của hệ thống chuyên chế mà họ sẽ tự giác khoác lên mình còn nặng nề và đau khổ hơn nhiều” [ So với những gì các đấng Siêu Nhiên mang đến cho con người ] [ Trang 462 ].

Con đường tiến tới Tự Do và Thịnh Vượng, mà ông gợi ý ở đây là “chúng ta phải tìm cách phối hợp những cố gắng của các cá nhân với “những lực lượng siêu nhiên” [ Đại diện cho những giá trị văn hóa, lịch sử, đạo đức, định hình loài người chúng ta, trong so sánh với các loại động vật khác ]. Tiến trình kết hợp những sức mạnh này, dù có diễn ra ở quy mô nào đi chăng nữa, phải diễn ra một cách tự nguyện và dân chủ, tôn trọng sự khác biệt giữa những cá nhân: “ý tưởng then chốt là tự do cá nhân KHÔNG THỂ HÒA HỢP với quyền uy tuyệt đối mà cả xã hội phải phục tùng một cách toàn diện và vĩnh viễn” [ Trang 463 ].

Ông cũng bổ sung, “Ngoại lệ duy nhất [ Đối với việc cá nhân phải hy sinh phần nào tự do cá nhân của mình ], là tình trạng chiến tranh hay những thảm họa tạm thời khác, khi mà hầu như tất cả đều phải phục vụ cho nhu cầu bức bách trước mắt“. Nhưng, điều này cũng chỉ có ý nghĩa là “Cái giá chúng ta phải trả trong ngắn hạn nhằm bảo vệ sự tự do của chúng ta trong dài hạn“. Có nghĩa là, chúng ta chấp nhận hy sinh, vì chúng ta tin rằng, chính quyền của thời kỳ hậu chiến / hậu thảm họa, sẽ bảo vệ cho quyền làm người Tự Do của chúng ta.

Cũng đứng trên nguyên tắc này, ông đã khẳng định rằng, có nhiều thứ thuộc về thời chiến sẽ không thể áp dụng lại trong thời bình được, “Điều đó giải thích tại sao nhiều câu nói thịnh hành hiện nay rằng trong thời bình chúng ta cũng sẽ làm những việc như chúng ta đã học làm trong thời chiến là những câu nói hoàn toàn sai: có thể tạm thời hi sinh tự do để trong tương lai tự do càng vững chắc hơn, nhưng không thể nói như thế được nếu hệ thống phi tự do như thế trở thành vĩnh cửu” [ Trang 463 ].

Tuy nhiên, ở những nhà nước độc tài toàn trị, chúng ta không khó để thấy rằng, có nhiều mô hình từ kinh tế, chính trị tới văn hóa, là những sản phẩm “con đẻ” của thời kỳ chiến tranh, vẫn tiếp tục tồn tại dai dẳng trong xã hội hiện đại, trở thành những lực cản to lớn cho sự phát triển của xã hội hiện tại.

Ở Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên… nhà nước nắm độc quyền về mọi lĩnh vực sinh tử đối với mỗi cá nhân, cộng đồng người, từ lương thực thực phẩm, tới năng lượng, giao thông vận tải, tài nguyên thiên nhiên, giáo dục, y tế. Các thành viên vừa thiếu khả năng, vừa thiếu nhân tâm của Đảng độc tài và bộ máy cai trị khổng lồ của họ vươn ra như những cái vòi bạch tuộc, bám vào khắp mọi nơi để hút cạn kiệt đi những nguồn lực tốt nhất mà xã hội có thể tích lũy, chúng không còn chừa lại một không gian nào cho những cá nhân có đầu óc tự do, những cộng đồng đặc thù, những nhà khoa học, các chuyên gia trong các lĩnh vực, những người thực hành tôn giáo, đạo đức, để họ làm công việc của mình.

Kết quả là, chúng ta đã được nhìn thấy những thiệt hại về kinh tế, văn hóa, giáo dục vô cùng thảm khốc đối với những dân tộc này, như đã đề cập ở những phần trước.

Ngay vào thời điểm này đây, khi dịch bệnh virus Vũ Hán quét qua thế giới, chúng ta cũng đang được chứng kiến những thất bại đau đớn, không còn có thể che dấu bằng bất cứ thứ vỏ bọc nào nữa, và cũng không còn đáng để tha thứ, nhìn từ bất cứ phương diện nào, của bộ máy lãnh đạo toàn trị của các đảng độc tài, trong đó có Việt Nam.

Ở Việt Nam, cho dù chiến tranh đã qua từ bao nhiêu thập niên, giờ này lãnh đạo Việt Nam vẫn không ngừng đổ lỗi tình trạng nghèo khổ, lạc hậu của Việt Nam là do chiến tranh. Những khẩu hiệu kiểu như “Quyết tâm, Quyết tử, Quyết chiến, Quyết thắng, Quán triệt mục tiêu, Chỉ đạo sâu sát, Lãnh đạo triệt để, Toàn dân thi đua, Hạ gục nhanh, Tiêu diệt gọn…” vẫn hiện diện trong các hội thảo khoa học, các cuộc họp ở các công sở, một cách sáo rỗng và phi thực tế.

Các mô hình Mặt Trận Tổ Quốc, Bộ Chính Trị, Dân Quân Tự Vệ, AK 47, lực lượng dư luận viên, Ban Tuyên Giáo Trung Ương và cơ sở, Học Viện Báo Chí tuyên truyền, tổ chức Đảng từ cấp cơ sở tới cấp Trung Ương, cơ chế ấp “chiến lược”, khái niệm sở hữu toàn dân, lập chỉ tiêu, kế hoạch… Tất cả đều là tư duy thời chiến nhưng vẫn được bưng nguyên xi vào trong đời sống của người dân trong thời hậu chiến, khiến cho đời sống của người dân trong cả nước vẫn bị bao phủ và nhận chìm trong bầu không khí chiến tranh. Việc hy sinh đi cái tự do của người dân, thay vì chỉ là tạm thời thì, đã trở thành tình trạng vĩnh viễn.

Theo quan điểm của Hayek, nếu như người ta chỉ háo hức với việc chiến tranh kết thúc, người ta thiếu những kế hoạch tái thiết thời hậu chiến được tính toán một cách chi tiết và khoa học, thì đất nước sẽ không bao giờ thực sự có khả năng bước ra khỏi được tư duy “chiến tranh”. Ông cho rằng, dĩ nhiên cần phải có thời gian để mỗi quốc gia chuyển tiếp từ “Chiến Tranh” qua “Hòa Bình”, nhưng thời gian này cần phải gắn với những mục tiêu ngắn hạn và rõ ràng và tối cần thiết, mang tính chất “bắc cầu” giữa hai giai đoạn. Nhà nước không được phép “mị dân” bằng những từ ngữ hoa mỹ, nhưng mơ hồ, trong giai đoạn này, chẳng hạn như, “dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, ai cũng có việc làm…”, vì nó có thể dẫn tới những biện pháp cực kì thiển cận. Họ cũng không nên đưa ra những kế hoạch hay chỉ tiêu to lớn mà kèm theo những đòi hỏi quyết liệt và thiếu trách nhiệm như “phải làm bằng mọi giá” của những người lí tưởng hóa. Điều này chắc chắn sẽ mang lại nhiều tác hại to lớn [ Trang 463 ].

Là một nhà kinh tế học, GS Hayek cho rằng, muốn xây dựng một xã hội thời hậu chiến, người ta phải ưu tiên vực dậy nền kinh tế, trong đó quan trọng nhất là sử dụng nguồn lực lao động một cách hợp lý. “Không nghi ngờ gì rằng vào thời điểm sau chiến tranh, sự khôn ngoan trong quản lí kinh tế còn quan trọng hơn cả thời kỳ trước đó, và số phận của nền văn minh của chúng ta rốt cuộc sẽ phụ thuộc vào việc chúng ta sẽ giải quyết những vấn đề kinh tế như thế nào” [ Trang 464 ].

Điều này là vì “Một trong những đặc điểm quan trọng của thời hậu chiến là hàng trăm ngàn người, cả đàn ông và đàn bà, do nhu cầu chiến tranh đã phải chuyển qua làm những công việc mà người ta không mong muốn. Trong thời bình khả năng sử dụng một số lượng người lớn đến như thế sẽ không còn… Việc tái đào tạo, chắc chắn sẽ được thực hiện trên quy mô to lớn, cũng không thể giải quyết được toàn bộ vấn đề..” [ Trang 464 ].

Ông giải thích, “Nếu không [ có kế hoạch phân phối nguồn lực lao động này hợp lý ], nó sẽ dẫn tới việc tiếp tục dư số lượng người lao động. Nó sẽ làm cho năng suất lao động giảm và sẽ làm gia tăng tỉ lệ những người làm việc mà lương bổng của họ được giữ nguyên chỉ nhờ các biện pháp nhân tạo [ của thời chiến ]”.

Một luận điểm khác cũng được Hayek chỉ ra ở đây, đó là TÌNH TRẠNG PHÂN PHỐI LƯƠNG THỰC, THỰC PHẨM, TÀI SẢN THEO KIỂU “BÌNH QUÂN CHỦ NGHĨA” TRONG THỜI CHIẾN, SẼ KHÔNG THỂ TIẾP TỤC ĐƯỢC THỰC HIỆN TRONG THỜI BÌNH. Ông cho điều đúng đắn nhất mà xã hội thời Hậu chiến nên làm đó là “Phải tìm cách nâng cao thu nhập của các cá nhân. Cũng như toàn xã hội, để mọi người có thể được hưởng phúc lợi xã hội tốt hơn“.

Ông cảnh báo “Có lẽ cũng không kém phần quan trọng là không được khắc phục tình trạng nghèo đói bằng các biện pháp thiển cận như tái phân phối thay vì phải nâng cao thu nhập, làm như thế là đẩy nhiều nhóm xã hội đông người thành kẻ thù của trật tự hiện hành“… [ Trang 465 ].

Ông lưu ý rằng, việc truất hữu tài sản của giai cấp trung lưu để chia đều cho những giai cấp nghèo khổ hơn, chính là chúng ta đang dùng tới các hình thức bạo lực để trấn áp Tự Do của người khác, và những ai đồng ý với điều đó, chính là họ đang giúp sức cho việc ngóc đầu dậy của chủ nghĩa toàn trị trên đất nước của họ. Cũng tương tự như thế, việc cướp của người giàu chia cho người nghèo tự nó sẽ không làm cho tài sản xã hội tăng lên mà nó còn bắt những người có khả năng hơn phải hi sinh phẩm giá và hạ thấp những chuẩn mực cuộc sống của mình, trong khi nó không hề làm tăng phẩm giá hay chuẩn mực cuộc sống của những tầng lớp thấp kém hơn.

Chúng ta chỉ có thể xây dựng được một thế giới tử tế nếu chúng ta có thể tiếp tục cải thiện được điều kiện sống cho tất cả mọi người… Chúng ta muốn khôi phục và đạt được mức sống cao hơn thì chúng ta phải tiến hành những điều chỉnh lớn chưa từng có, và chỉ khi mỗi người chúng ta sẵn sàng tuân theo những nhu cầu tất yếu của quá trình tái điều chỉnh này thì chúng ta mới có thể vượt qua giai đoạn khó khăn như những người tự do, những người có quyền lựa chọn cách sống riêng của mình” [ Trang 465 ].

Để làm được điều đó mà không gây ra nhiều xáo trộn trong xã hội, ông đề nghị các chính phủ “Hãy tìm mọi cách để đảm bảo một mức sống tối thiểu đồng đều cho tất cả mọi người, NHƯNG ĐỒNG THỜI VỚI VIỆC ĐẢM BẢO MỘT MỨC SỐNG TỐI THIỂU NHƯ THẾ RỒI, THÌ MỌI ĐÒI HỎI VỀ ƯU TIÊN, ƯU ĐÃI CHO NHỮNG GIAI TẦNG ĐẶC BIỆT [ Những người không thể / hoặc không muốn lao động trong xã hội, thường xuyên sống bằng trợ cấp, và những nhóm lãnh đạo đã quen được hưởng những ưu đãi đặc biệt ] CŨNG PHẢI BỊ BÃI BỎ. Mọi lí do cho phép thành lập những nhóm khép kín nhằm bảo đảm những tiêu chuẩn đặc biệt cho họ cũng sẽ phải bị bãi bỏ“.

GS Hayek cho rằng, nếu những nhà lãnh đạo đất nước [ Tầng lớp đã được ưu ái nhiều trong những thời kỳ khó khăn ] không đồng ý hy sinh những lợi ích của mình như ý kiến trên, mà họ tìm những cách thức khác để biện minh, chẳng hạn như “Mặc xác kinh tế, chúng ta sẽ xây dựng một thế giới tử tế”, thì “đấy là những lời kêu gọi nghe có vẻ cao thượng nhưng trên thực tế lại là những lời nói hoàn toàn vô trách nhiệm… Điều duy nhất mà nền dân chủ hiện đại không thể chịu đựng được, nó nhất định sẽ bị tổn thương, đấy là khi nó buộc phải giữ mức sống thấp đối với dân chúng của nó ngay cả trong thời bình hoặc chứng kiến sự giẫm chân tại chỗ của nền kinh tế trong một thời gian dài” [ Trang 478 ].

Điều này, giải thích cho nhiều người trong chúng ta rằng, tại sao những quốc gia như Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Cuba, lại chưa bao giờ có khả năng chạm vào cánh cửa của nền “dân chủ”. Hayek cũng cảnh báo rằng, lãnh đạo của các quốc gia độc tài toàn trị, để giữ lại những quyền lợi và ưu tiên của mình, họ sẽ tiếp tục tự lừa phỉnh dân chúng rằng toàn dân đang hi sinh quyền lợi vật chất nhân danh những mục đích lí tưởng cao đẹp của Chủ Nghĩa Xã Hội, Chủ Nghĩa Cộng Sản, hoặc cái gì đó tương tự. Sự lừa phỉnh của tầng lớp lãnh đạo này, đến lượt nó, sẽ có thể làm nảy sinh, ngay cả ở những con người lương thiện nhất trong xã hội, những bản tính lừa lọc, dối trá, nghi kỵ, ích kỷ, giảo hoạt, háo danh, khi họ phải hàng ngày đối mặt với các thủ đoạn và đòi hỏi của bộ máy cai trị.

Như vậy, liệu năm mươi năm tiếp xúc với chủ nghĩa tập thể có nâng cao được tiêu chuẩn đạo đức của chúng ta hay sự thay đổi sẽ đi theo chiều ngược lại?” [ Trang 471 ].

Liên quan đến việc xây dựng một xã hội “Công bằng, bình đẳng, văn minh, nhân bản“. Hayek cho rằng, “Mặc dù chúng ta thường tỏ ra tự hào là nhạy cảm hơn với các bất công xã hội, nhưng hành động của mỗi người chúng ta thì lại chưa chứng tỏ được điều đó” [ Nếu chúng ta đồng ý với nhau rằng, sẽ luôn có những tầng lớp được hưởng đặc quyền đặc lợi hơn phần lớn những người dân trong xã hội, dù họ không thể chứng minh được những đóng góp của họ là xứng đáng với những đặc quyền đặc lợi đó, thì có nghĩa là chúng ta đã phản lại tinh thần công bằng của nền dân chủ tự do ] [ Trang 471 ].

Cũng như vậy, về mặt đạo đức xã hội, Hayek khẳng định, “Các tiêu chuẩn đạo đức nhất định phải gắn bó mật thiết với các hành vi mang tính cá nhân [ Cá nhân tự quyết định mình nên trở thành người như thế nào, thông qua những hành động của mình ], cũng như chúng chỉ có hiệu lực khi cá nhân được tự do quyết định và tự nguyện hi sinh các quyền lợi cá nhân [ mà không bị một sức ép nào từ bên ngoài ] nhằm thực thi các quy tắc đạo đức. Chỉ khi chúng ta hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyền lợi của mình, và có tự do trong việc chọn lựa hi sinh các quyền lợi đó, thì quyết định của chúng ta mới có giá trị đạo đức“.

Chắc chắn rằng, chúng ta sẽ CHẲNG THỂ được coi là vị tha khi chúng ta chỉ muốn hi sinh quyền lợi của người khác [ Như cách mà các nhà lãnh đạo độc tài toàn trị hy sinh quyền lợi của dân chúng ] cho những mong ước của chúng ta, chúng ta sẽ KHÔNG XỨNG ĐÁNG được vinh danh nếu như chúng ta ép người khác vào chỗ không còn lựa chọn nào khác, ngoài hi sinh lợi ích của họ, cho những mong muốn của chúng ta, dù rằng với bất kỳ mục đích nào. Thêm vào đó, nếu những thành viên của một xã hội mà trong bất cứ hoàn cảnh, điều kiện nào, cũng cam chịu phải làm cái điều [ mà họ được tuyên truyền rằng là điều tốt ] dù phải hy sinh quyền lợi của họ, thì họ cũng chẳng có gì để chúng ta phải ca ngợi [ Vì họ đã không tự biết suy nghĩ để bảo vệ quyền lợi của chính mình ] [ Trang 472 ].

Hayek bày tỏ niềm tin tưởng mạnh mẽ vào việc “Chỉ có thể gọi một xã hội là văn minh, nhân bản, đạo đức khi từng thành viên trong xã hội đó tự ý thức được vai trò cá nhân và xã hội của mình, khi từng cá nhân trong xã hội đó nỗ lực để trở nên có đạo đức và hành xử phù hợp, mà không thể có trường hợp ngược lại” [ Tức, gọi nhà nước đó là nhà nước đạo đức trước, rồi dân chúng tự động trở nên có đạo đức. Không thể có chuyện gọi nhà nước là Xã Hội Chủ Nghĩa hay Cộng Sản, thì người dân sẽ theo đó mà có tinh thần Xã Hội Chủ Nghĩa ].

Ông lập luận:

Tự do hành động ngay trong những hoàn cảnh thách thức những lựa chọn của chúng ta, cũng như biết tự chịu trách nhiệm khi chọn lựa cách tổ chức cuộc sống phù hợp với lương tâm của mình, chính là những điều kiện cần thiết để ý thức về đạo đức [ của mỗi cá nhân ] có thể phát triển… Mỗi cá nhân sẽ chịu trách nhiệm, không phải trước cấp trên, mà trước lương tâm của mình…. Ý thức về trách nhiệm SẼ KHÔNG đến từ việc một cá nhân vì bị cưỡng bức mà phải thực hành, mà cần phải đến từ việc cá nhân coi cái gì đó là có giá trị, và họ phải dám hy sinh những cái khác, cũng như sẵn sàng chấp nhận hậu quả của những quyết định do mình đưa ra, tất cả những điều đó chính là bản chất của đức hạnh, theo nghĩa đúng đắn nhất của từ này” [ Trang 472-473 ].

Ông cũng cho rằng, “Trong lĩnh vực hành vi cá nhân thì ảnh hưởng của chủ nghĩa tập thể chỉ mang tính phá hoại. Phong trào nào mà hứa hẹn sẽ giải thoát con người ta khỏi trách nhiệm cá nhân, chắc chắn nó sẽ trở thành phong trào phi đạo đức” [ BLM? ]. Trên thực tế dù lí tưởng ban đầu của nó có cao quý đến mức nào, và…

Lên tiếng đòi hỏi nhà cầm quyền cải thiện tình hình HOẶC ngồi im, cam chịu phục tùng mệnh lệnh của nhà cầm quyền, miễn là những người khác xung quanh mình cũng bị buộc phải làm như thế, VÀ, tự mình sẵn sàng đứng lên làm những việc mà mình cho là đúng, ngay cả khi phải hi sinh những ước mơ riêng của mình, cũng như việc mình sẽ có thể phải hứng chịu những điều tiếng không hay LÀ HAI VIỆC HOÀN TOÀN KHÁC NHAU“. [ Một cá nhân tự do, và biết suy nghĩ thì phải phân biệt được hai điều này rõ ràng ].

Ông cho rằng, trong các xã hội, khi các nhà độc tài toàn trị lên tiếng, họ thường có xu hướng kêu gọi con người hướng vào những hành động tập thể và bỏ qua những suy tư về bản thân họ như là những con người cá nhân cụ thể. Điều này cực kỳ là tai hại, vì có nghĩa là họ cũng bỏ qua cả những sai trái của những con người cá nhân, và chỉ dành sự quan tâm cho những mục đích tập thể, cho dù cái mục đích đó nó tàn nhẫn và phi nhân tính.

Có nhiều sự kiện chứng tỏ rằng trên thực tế càng ngày chúng ta càng dễ bỏ qua những hành động bất lương cụ thể, càng ngày càng tỏ ra bàng quan đối với những bất công riêng lẻ, trong khi đó lại chú mục vào cái hệ thống lí tưởng, trong đó nhà nước sẽ tổ chức mọi việc một cách hoàn hảo. Có thể, như đã nói bên trên, CHÍNH NIỀM SAY MÊ HÀNH ĐỘNG TẬP THỂ LÀ CON ĐƯỜNG ĐƯA CHÚNG TA CHÌM ĐẮM VÀO THÓI ÍCH KỶ TRÊN QUY MÔ TẬP THỂ” [ Trang 474 ].

Và như vậy, “Những đức tính tốt như tự lập, tự lực cánh sinh, sẵn sàng mạo hiểm, sẵn sàng bảo vệ ý kiến của mình dù trái ngược với đa số và tinh thần sẵn sàng hợp tác với người khác, là những đức tính tối quan trọng của xã hội cá nhân chủ nghĩa thì nay không còn được đánh giá cao, và ít được thực hành hơn trước. Chủ nghĩa tập thể không thể thay thế được những đức tính đó, nhưng trong khi phá hủy chúng, chủ nghĩa tập thể đã để lại một khoảng trống về mặt đạo đức, mà sau đó lại được lấp đầy bằng một yêu cầu duy nhất là các cá nhân phải phục tùng và tham gia thực hiện những điều mà tập thể [ chứ không phải cá nhân ] quyết định là tốt” [ Trang 475 ].

Nguy hiểm hơn, điều này sẽ khiến cho sự lựa chọn về khía cạnh đạo đức đạo đức của các ứng cử viên [ là những người sẽ đại diện cho ý chí của người dân ] trong các cuộc bầu cử định kì ngày một thu hẹp thêm. Các ứng cử viên sẽ không còn cần phải chứng minh những giá trị đạo đức của cá nhân họ, cũng không cần phải chứng minh lòng chân thành cũng như lương tâm, năng lực của mình, mà chỉ cần đưa ra những lời hứa hẹn sáo rỗng về tinh thần và mục tiêu của tập thể, khiến cho việc lựa chọn ra người đại diện chính quyền này có thể thất bại hoàn toàn, hoặc đem lại những hậu quả vô cùng tai hại.

Vì các QUY TẮC HÀNH XỬ CỦA CÁ NHÂN CHÍNH LÀ CỘI NGUỒN ĐỨC HẠNH CỦA CÁC HÀNH ĐỘNG CHÍNH TRỊ TẬP THỂ, cho nên quả là chuyện lạ nếu tiêu chuẩn đạo đức cá nhân giảm đi LẠI CÓ THỂ ĐI kèm với sự gia tăng các tiêu chuẩn của hành động xã hội”. [ Chỉ có nhiều cá nhân tốt tạo ra xã hội tốt, chứ khó có thể ngược lại ] [ Trang 476 ].

GS Hayek cũng cho rằng, ở những xã hội khác nhau, vào những thời điểm khác nhau, con người sẽ sắp xếp lại các thang giá trị của mình, trong đó, họ sẽ có thể coi một số giá trị là cao hơn, một số thấp hơn so với các thế hệ đi trước.

Tuy nhiên, ông tin rằng, có những giá trị sẽ giống nhau ở nhiều xã hội, và nhiều xã hội sẽ chia sẻ những giá trị này. Một trong số đó là những điều kiện cơ bản, ở mức ít nhất là đủ cho nhu cầu tối thiểu của con người [ Ăn, ở, mặc, hít thở không khí sạch ].

Ông lập luận:

Nhưng xin hãy tự hỏi: những mục tiêu nào đang bị coi là thấp, và giá trị nào có thể phải hi sinh… nếu chúng xung đột với các giá trị khác? Trong các họa phẩm vẽ về tương lai mà các văn sĩ và các diễn giả đưa ra cho chúng ta, thì những giá trị nào có vị trí mờ nhạt hơn so với những bức tranh từng hiện diện trong những giấc mơ và niềm hi vọng của cha ông chúng ta?

Chắc chắn là tiện nghi vật chất, nâng cao mức sống và bảo đảm một vị trí xã hội nhất định KHÔNG THỂ CHIẾM CÁC VỊ TRÍ THẤP TRÊN THANG GIÁ TRỊ CỦA CHÚNG TA” [ Nếu chúng ta là những con người bình thường, bằng xương bằng thịt, và có lý trí ].

LIỆU CÓ VĂN SĨ HAY DIỄN GIẢ NÀO DÁM ĐỀ NGHỊ QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN NHÂN DANH NHỮNG LÝ TƯỞNG CAO CẢ MÀ CHẤP NHẬN HY SINH CÁC TRIỂN VỌNG VẬT CHẤT CỦA HỌ HAY KHÔNG?

Vậy mà ngay vào lúc này, sau 80 năm Hayek đã cảnh báo điều này, thì ở các quốc gia độc tài toàn trị, nơi các lãnh đạo độc tài toàn trị thường xuyên kêu gọi những người dân khốn khổ của mình hy sinh những khát vọng cá nhân cho những mục tiêu tập thể lý tưởng đến độ hoang tưởng, nơi người ta thường xuyên kêu gọi những con người còn đang trong những hoàn cảnh sống thấp kém, phải biết quên đi những đòi hỏi vật chất, những đòi hỏi cơ bản của con người, để toàn tâm hướng tới những giá trị đạo đức cao cả, những thứ mà chỉ có các bậc triết nhân, vĩ nhân, những người đã đạt đến những hoàn cảnh sống hết sức đầy đủ rồi mới dám mơ tưởng đến. [ Điển hình là vào ngày 11/08/2021 Tổng Bí Thư của Đảng Cộng Sản Việt Nam mới phát biểu: Tiền bạc lắm làm gì, danh dự mới là điều thiêng liêng, cao quý nhất ].

Thêm vào đó, Hayek cũng đặt câu hỏi về những giá trị quan trọng mà người dân không được phép để nó bị xâm phạm theo bất cứ cách thức nào, trong bất cứ kế hoạch nào trong tương lai, trong đó bao gồm các: quyền tự do cá nhân, quyền tự do đi lại, quyền tự do ngôn luận nữa, và quyền lên tiếng đòi hỏi chính phủ phải cung cấp cho mình những thứ mà mình cần, sau khi mình đã có những đóng góp hợp lý [ Trang 477 ].

[ Ở những xứ sở độc tài toàn trị ], việc phân biệt đối xử với những thành viên và những người không phải thành viên của các “nhóm lợi ích” [ thường là bộ máy lãnh đạo và bè lũ tay sai ], đấy là chưa nói tới những sắc dân thuộc các thành phần khác, càng ngày càng được coi là vấn đề đương nhiên… Những bất công do chính phủ gây ra cho các cá nhân, khi nó chỉ hành động nhằm bảo vệ quyền lợi của một nhóm nào đó, đã bị người ta lờ đi với thái độ bàng quan có thể sánh ngang với sự tàn nhẫn… Những vụ vi phạm trắng trợn quyền cơ bản của con người, thí dụ như ép buộc di dân hàng loạt [ Đi kinh tế mới, dồn người vào các trại cải tạo ] được ngay cả những người tự nhận là theo trường phái tự do ủng hộ.

TẤT CẢ NHỮNG ĐIỀU NÀY, CHỨNG TỎ RẰNG Ý THỨC ĐẠO ĐỨC CỦA CHÚNG TA ĐÃ CÙN MÒN ĐI, CHỨ KHÔNG PHẢI LÀ SẮC BÉN THÊM [ Theo quy luật về sự tiến hóa của con người ] [ Trang 477 ].


Bình luận về sự thoái hóa đạo đức của con người nói chung trong các xã hội độc tài toàn trị nói chung, Hayek cho rằng:

Có một khía cạnh trong sự thay đổi của các giá trị đạo đức, mà do sự lấn tới của chủ nghĩa tập thể đã gây ra, rất đáng được suy ngẫm vào lúc này. Đó là những đức tính càng ngày càng ít được coi trọng, và vì vậy càng ngày càng trở thành hiếm hoi hơn, nhưng trước đây các đức tính này từng là niềm tự hào của người Anglo-Saxon [ Người Anh hiện tại ] và họ cũng được mọi người thừa nhận là xuất sắc về mặt đó” [ Trang 478 ].

Những đức tính mà các dân tộc này sở hữu là TÍNH ĐỘC LẬP VÀ TỰ LỰC CÁNH SINH, SÁNG KIẾN CÁ NHÂN VÀ TRÁCH NHIỆM CỘNG ĐỒNG, BIẾT TỔ CHỨC VÀ DỰA VÀO CÁC HOẠT ĐỒNG TÌNH NGUYỆN, TRONG KHI, KHÔNG CAN THIỆP VÀO CÔNG VIỆC CỦA NGƯỜI KHÁC, CŨNG NHƯ KHOAN DUNG VỚI NHỮNG NGƯỜI CÓ SUY NGHĨ KHÁC MÌNH, KỂ CẢ VỚI NHỮNG NGƯỜI CÓ KHUYNH HƯỚNG BỊ COI LÀ LẬP DỊ, TÔN TRỌNG TẬP QUÁN TRUYỀN THỐNG, CÓ THÁI ĐỘ NGHI NGỜ LÀNH MẠNH ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN VÀ NHÀ CHỨC TRÁCH.

Gần như tất cả các truyền thống và thiết chế, trong đó tinh thần đạo đức dân chủ được thể hiện một cách đặc trưng nhất và đến lượt nó, lại hun đúc nên tinh thần dân tộc và toàn bộ bầu không khí đạo đức của nước Anh và nước Mĩ này, lại đang bị chủ nghĩa tập thể và các xu hướng tập quyền gắn liền với nó phá hủy” [ Trang 478 ]. Hayek xem việc mà người [ Anh ] coi thường những đóng góp có giá trị nhất của họ cho nhân loại là “một trong những cảnh tượng đáng buồn nhất trong thời đại chúng ta“. Ông cho rằng khi người ta xem thường những giá trị tượng trưng cho Con người cá nhân Độc Lập, Tự Do và nền Dân Chủ như vậy, thì nền dân chủ sớm muộn gì cũng bị lung lay, tiến đến chỗ có thể bị thay thế bằng nền cai trị độc tài toàn trị. “Những người Xã Hội Chủ Nghĩa này, dĩ nhiên là không bao giờ chịu công nhận rằng, các giá trị đạo đức mà đa số họ vẫn lấy làm tự hào [ Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc ], lại là sản phẩm của những thiết chế mà họ đã và đang kêu gọi phá hủy” [ Trang 479 ].

Đáng kinh ngạc hơn, khi Hayek viết cuốn sách này, chiến tranh Thế Giới Thứ II vẫn chưa kết thúc, nhưng Hayek đã có suy nghĩ tới việc chính các nước đồng minh ở Phương Tây sẽ phải gánh vác vai trò tái thiết lại Châu Âu, sau thất bại của phe phát xít. Hayek đã nói rằng, “Nếu sau này chúng ta [ Anh và các nước đồng minh ], phải giúp nước Đức và Ý tái thiết lại đất nước sau thế chiến, [ ông tin rằng ] “những quốc gia này sẽ hiểu sâu sắc rằng, TẤT CẢ CÁC Ý ĐỊNH TỐT ĐẸP LẪN TÍNH HIỆU QUẢ CỦA HỆ THỐNG ĐỀU SẼ CHẲNG THỂ BẢO VỆ ĐƯỢC SỰ ĐÚNG ĐẮN CỦA CHÚNG, TRONG MỘT HỆ THỐNG MÀ KHÔNG CÓ CẢ TỰ DO LẪN TRÁCH NHIỆM CÁ NHÂN. Người Đức và người Ý, là những người đã thấm nhuần bài học về sự độc tài của chính phủ tiền nhiệm của họ, phải làm trước hết là TỰ BẢO VỆ HỌ BẰNG CÁCH CHỐNG LẠI MÔ HÌNH NHÀ NƯỚC TẬP TRUNG TOÀN TRỊ” [ Trang 483 ].


Sau cùng thì, những nhận định sau của GS Hayek cũng có thể rất đáng cân nhắc cho người dân ở những nước đang nằm dưới sự cai trị của bộ máy độc tài toàn trị:

Người dân không cần những kế hoạch đại quy mô nhằm tổ chức lại toàn bộ xã hội, cái họ cần là cơ hội xây dựng lại thế giới nhỏ bé của mình một cách thanh bình và trong tự do. Họ hoàn toàn có thể hi vọng vào sự trợ giúp của những kiều dân của các nước từng là đối thủ của họ, KHÔNG PHẢI vì họ tin rằng bị người Anh hay người Mĩ chỉ đạo thì tốt hơn là bị người Đức [ hay người Liên Xô, Trung Hoa ] chỉ đạo, MÀ VÌ HỌ TIN RẰNG, trong cái thế giới mà, nơi các lí tưởng dân chủ đã chiến thắng, người dân sẽ ít cam chịu sự chỉ đạo từ bên trên hơn, người dân sẽ được sống trong hòa bình và theo đuổi những mối quan tâm riêng của mình” [ Trang 483 ].

Bên cạnh đó, Hayyek cũng đưa ra những lời gợi ý, mà có thể ngay vào thời điểm này, có thể là vô cùng cần thiết cho việc xây dựng đất nước trong tương lai, của người dân ở các quốc gia độc tài toàn trị:

Muốn thắng trong cuộc đấu tranh tư tưởng và lôi kéo được những phần tử tử tế trong các quốc gia thù địch, thì trước hết chúng ta phải giành lại lòng tin vào những giá trị truyền thống mà chúng ta từng bảo vệ trong quá khứ [ Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc, Dân Chủ, Yêu Nước Thương Nòi, Can Đảm, Hy Sinh, Có Trách Nhiệm ], và phải có đủ dũng khí đạo đức để bảo vệ những lí tưởng mà đối thủ của chúng ta [ Là những kẻ muốn duy trì chế độ độc tài, toàn trị ] đang tấn công chúng ta….

Chúng ta sẽ giành được niềm tin và sự ủng hộ KHÔNG PHẢI bằng những lời xin lỗi đáng xấu hổ, KHÔNG PHẢI bằng những lời bảo đảm rằng chúng ta sẽ cải tổ một cách nhanh chóng, KHÔNG PHẢI bằng những lời giải thích rằng chúng ta đang đi tìm sự thỏa hiệp giữa các giá trị tự do truyền thống và những tư tưởng toàn trị mới, mà chính là niềm tin không hề lay chuyển của chúng ta vào những truyền thống đã làm cho nước Anh và nước Mĩ [ và những quốc gia dân chủ tự do khác ], trở thành quốc gia của những con người tự do, ngay thẳng, khoan dung và độc lập. Đó mới là điều đáng để chúng ta quan tâm [ Trang 484 ].

Phần kết,

Tôi xin tạm dừng phần tóm tắt tác phẩm “Đường Về Nô Lệ” của tác giả Hayek ở đây. Trong tác phẩm vĩ đại này, GS Hayek cũng còn dành ra chương cuối cùng để tiên đoán về trật tự thế giới sau Thế Chiến Thứ Hai, về xu hướng quốc tế hóa và khu vực hóa, về sự trỗi dậy của những hình thức chủ nghĩa độc tài toàn trị mới, trong các khu vực, khi những quốc gia có nhiều thế mạnh hơn cố gắng áp đặt những chuẩn mực của mình lên những quốc gia nhỏ bé hơn, và điều này sẽ dẫn tới nguy cơ tan vỡ của chủ nghĩa khu vực [ Như chúng ta đã được chứng kiến hiện tượng Brexit trong những năm qua ].

Tôi hiểu một cách sâu sắc rằng bản tóm tắt này còn rất nhiều thiếu sót, và những phân tích cũng còn rất thiển cận và vụng về, không thể chuyển tải được toàn bộ ý nghĩa to lớn của tác phẩm.

Tuy nhiên, tôi tin rằng bất cứ một người nào dù sống ở đâu trên trái đất này, tự nhận mình là người Việt Nam, đều có chung mong đợi một ngày đất nước phát triển, nền dân chủ được thực thi rộng rãi trong đời sống xã hội ở Việt Nam. Khi đó, những người Việt Nam có thể ngẩng cao đầu bước đi với niềm tự hào là công dân của một quốc gia tự do, có thể tự tin cầm một cuốn hộ chiếu trên tay mà không cảm thấy hổ nhục, có thể tự giới thiệu mình là người Việt Nam mà không cảm thấy ngại ngùng trước con mắt của bạn bè thế giới.

[ Xếp hạng của Tổ Chức Cư Trú và Công Dân Toàn Cầu Henley & Partners, trong suốt nhiều năm, hộ chiếu Việt Nam chỉ được xếp dưới hoặc cùng lắm là ngang bằng với hộ chiếu Lào và Campuchia ( Báo Thanh niên; https://thanhnien.vn/tai-chinh-kinh-doanh/ho-chieu-viet-nam-kem-quyen-luc-hon-ca-lao-campuchia-966451.html ) ].

Tính đến Tháng Bảy, 2021, hộ chiếu Việt Nam xếp hạng thứ 94/199 hộ chiếu, đồng hạng với Nigeria, Mali và Cambodia.

Chúng ta là một quốc gia đang sống trong hòa bình, chúng ta có “Rừng vàng biển bạc, có lịch sử 4,000 năm, có gần 100 triệu dân trong thời điểm hiện tại, dân chúng ta thông minh, chăm chỉ, yêu nước, thương nòi, nước chúng ta có sự lãnh đạo thiên tài, sáng suốt của Đảng cộng sản quang vinh muôn năm, chúng ta làm được những điều mà thế giới chưa bao giờ làm được…”. Vậy mà vì cớ gì mà người Việt Nam cầm cái hộ chiếu của nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trên tay, lại không thể mở mày mở mặt ra được với bất cứ quốc gia nào trên thế giới này? Có điều gì đó là nghịch lý đến nỗi nó không đáng được tha thứ ở đây không?

Chắc chắn là không phải riêng tôi, mà còn rất nhiều người Việt Nam khác, cũng có niềm tin vững vàng rằng Việt Nam có những tiềm năng con người to lớn, không thua kém bất cứ một quốc gia nào ở trong khu vực Đông Nam Á, và có thể là ngoài khu vực này nữa. Trong suốt nhiều năm qua, những tiềm năng này đã tỏa sáng rực rỡ khi chúng được mang đi vun trồng ở những mảnh đất của tự do.

Chắc hẳn tất cả các độc giả có đọc bài này của tôi, cũng đồng ý rằng, từng người người Việt Nam một, cho dù xuất thân trong những điều kiện khác biệt to lớn, đều xứng đáng được bước đi trên Đại Lộ Tự Do, thay vì Đại Lộ Nô Lệ, mà những sai lầm nối tiếp của nhiều con người tham vọng và mơ mộng trong lịch sử một trăm năm, đã dẫn dắt những dân tộc khổ đau, trong đó có Việt Nam bước vào.

Và hẳn chúng ta cũng có thể chia sẻ với nhau rằng: Nếu như càng ngày càng có nhiều những người Việt Nam trẻ tuổi, và đang sở hữu nhiều điều kiện tốt hơn hẳn những thế hệ cha anh, có thể dành nhiều thời gian hơn để nghĩ về những gì đã, và đang xảy ra trên mảnh đất thân yêu này, cũng như nghĩ về những ước mơ mà chúng ta muốn hiện thực hóa trong những thế hệ tiếp theo của chúng ta, chúng ta đều có thể chung tay, làm những điều dù là nhỏ bé nhất, trong hoàn cảnh và phù hợp với điều kiện, sức lực của mỗi người, để góp phần cải tạo lại mảnh đất đau thương này.

Mỗi ngày, chúng ta có thể gieo xuống mảnh đất đó những hạt mầm khỏe mạnh. Chúng ta sẽ nuôi dưỡng chúng, chăm sóc chúng, làm bất cứ điều gì có thể để bảo vệ chúng, và chờ đến một ngày, chúng ta lại có thể nhìn thấy chúng trưởng thành rực rỡ, đơm hoa kết trái, không phải trên Đại Lộ của Nô Lệ, mà sẽ là trên một đại lộ mới có tên Đại Lộ TỰ DO.

Tác Giả: Từ Liên.

Phần 4: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.

Chủ Nghĩa Phát Xít Và Chủ Nghĩa Xã Hội Chỉ Là Những Tên Gọi, Hình Thức Khác Nhau Của Chủ Nghĩa Độc Tài Toàn Trị.

CHỦ NGHĨA PHÁT XÍT VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CHỈ LÀ NHỮNG TÊN GỌI, HÌNH THỨC KHÁC NHAU CỦA CHỦ NGHĨA ĐỘC TÀI TOÀN TRỊ.

Phần 1: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác giả: Từ Liên.

Phần 2: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek — Tóm Tắt. Tác Giả: Từ Liên.

Phần 3: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.

Trong những năm gần đây, thế giới đã chứng kiến những sự kiện xuất hiện ở một vài quốc gia Châu Âu, và đặc biệt là ở Hoa Kỳ, khiến cho nhiều người liên tưởng tới sự nảy sinh của những mầm mống CNXH, ở những vùng đất nằm bên ngoài những quốc gia vẫn còn theo hệ thống này trong thời kỳ hiện đại.

Trong bối cảnh như vậy, dường như nhiều quốc gia đã quên rằng từ cách nay hơn một thế kỷ, đã có những nhà nghiên cứu kinh tế, chính trị, xã hội, trong đó có Alexis de Tocqueville, có Hayek, bằng những khảo cứu nghiêm túc về lịch sử của xã hội loài người, bằng những quan sát và trải nghiệm thực tiễn của họ, đã liên tục cảnh báo nhân loại, rằng có rất nhiều nguy cơ luôn rình rập xung quanh cuộc sống của con người để đánh lừa con người và dụ dỗ họ đi ra khỏi cánh cửa rộng mở của thế giới của chủ nghĩa tự do và chui vào trong tấm lưới sắt “chủ nghĩa độc tài toàn trị“.

Xin được trích nguyên văn ở đây những nhận xét của tác giả Hayek cách nay gần 80 năm về điều này:

Nhưng trong mấy năm gần đây [ Thời điểm Hayek viết cuốn sách này, 1942-1943 ], các ý kiến bàn về những hậu quả không thể lường được của chủ nghĩa xã hội, tưởng như đã rơi vào quên lãng từ lâu, lại được gióng lên với một sức mạnh mới và từ những hướng bất ngờ nhất. Các nhà quan sát, hết người này đến người khác, xuất phát từ những xu hướng hoàn toàn trái ngược nhau, ĐÃ NHẬN RA SỰ TƯƠNG ĐỒNG ĐẾN KINH NGẠC GIỮA CHỦ NGHĨA PHÁT XÍT VÀ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN. Trong khi những người “tiến bộ” ở Anh và ở một số nơi khác tiếp tục tự lừa mình rằng chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát xít là những hiện tượng trái ngược nhau thì càng ngày càng có nhiều người tự hỏi rằng phải chăng các chính thể chuyên chế mới nổi đó có cùng cội rễ.

Kết luận mà Max Eastman, một người bạn cũ của Lenin, rút ra đã làm cho ngay cả những người cộng sản cũng phải choáng váng. “Chủ nghĩa Stalin”, ông viết, “không những không tốt hơn mà còn xấu hơn cả chủ nghĩa phát xít vì nó tàn nhẫn hơn, dã man hơn, bất công hơn, vô luân và thiếu dân chủ hơn, không thể biện hộ bằng hi vọng hay sám hối”. Rồi ông viết tiếp: “Đúng hơn, phải gọi nó là siêu phát xít” khi nó [ tìm mọi biện pháp ] để theo đuổi quá trình quốc hữu hóa và tập thể hóa, và xây dựng xã hội phi giai cấp”.

Ghi nhận của Eastman là rất đáng chú ý, nhưng đây không phải là trường hợp duy nhất khi một nhà quan sát vốn có thiện cảm với các cuộc thí nghiệm ở Nga rút ra kết luận tương tự. Mấy năm trước, William Henry Chamberlin, một nhà báo Mĩ từng sống ở Nga suốt mười hai năm, đã chứng kiến sự đổ vỡ tất cả các lí tưởng của mình khi ông tiến hành tổng kết những điều quan sát được và so sánh kinh nghiệm ở Liên Xô với kinh nghiệm ở Đức và Ý: “Chủ nghĩa xã hội, ít nhất là trong những giai đoạn đầu, không phải là con đường dẫn tới tự do mà là tới chế độ độc tài và các phong trào chống lại độc tài, dẫn tới những cuộc nội chiến khốc liệt nhất. Giành và giữ chủ nghĩa xã hội bằng các phương pháp dân chủ, hòa bình dĩ nhiên là điều không tưởng”.

Frederick Augustus Voigt, một nhà báo người Anh, sau khi quan sát các sự kiện ở Châu Âu, cũng rút ra kết luận tương tự như thế: “Chủ nghĩa Marx đã dẫn đến chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa xã hội quốc gia vì về bản chất nó chính là chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa xã hội quốc gia”.

Còn Walter Lippmann thì tin rằng: “Thế hệ chúng ta, bằng chính kinh nghiệm của mình, sẽ nhận ra rằng từ bỏ tự do nhân danh tổ chức cưỡng bức sẽ đưa người ta đến đâu. Tưởng rằng sẽ được giàu sang, ai ngờ trên thực tế người ta lại trở thành nghèo túng. Còn khi lãnh đạo có tổ chức được tăng cường thì cũng là lúc tính đa dạng phải nhường chỗ cho sự đơn điệu. Đấy là cái giá phải trả cho xã hội được lập kế hoạch và cách tổ chức công việc của con người theo lối độc tài”

Có thể tìm thấy vô số những điều khẳng định tương tự trong các tác phẩm được công bố mấy năm gần đây, đặc biệt là của những người vốn là công dân của các nước đã bước chân lên con đường phát triển toàn trị,những người từng trải qua giai đoạn chuyển đổi và buộc phải xem xét lại quan điểm của mình là có sức thuyết phục hơn cả. Xin dẫn ra ở đây một lời phát biểu nữa, của một người Đức, có thể cũng nói ý tương tự, nhưng thể hiện rõ hơn bản chất của vấn đề.

Niềm tin vào tính khả thi của tự do và công bằng theo lí luận của Marx đã hoàn toàn đổ vỡ, Peter Drucker viết, “đấy chính là lí do thúc đẩy nước Nga bước lên con đường dẫn tới xã hội toàn trị, đầy cấm đoán, phi kinh tế, thiếu tự do và đầy bất công mà nước Đức đã theo. Không, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát xít không phải là những thực thể giống nhau. Chủ nghĩa phát xít là giai đoạn tiếp theo, sau khi chủ nghĩa cộng sản đã chứng tỏ rằng đấy chỉ là một ảo tưởng, như đã từng xảy ra ở Nga dưới thời Stalin cũng như ở Đức trước khi Hitler cướp được chính quyền.

Sự chuyển hóa về mặt trí tuệ của các lãnh tụ quốc xã và phát xít cũng có ý nghĩa không kém. Những người theo dõi quá trình phát triển của các phong trào này ở Ý hay ở Đức, không thể không ngạc nhiên khi thấy rất nhiều lãnh tụ, từ Mussolini trở xuống, kể cả Pierre Laval ( một trong những lãnh tụ Đảng cộng sản Pháp), và Vidkun Quisling ( một trong những lãnh tụ của đảng Cực Hữu Na Uy ), đã khởi đầu như những người xã hội chủ nghĩa, để cuối cùng trở thành những tên phát xít hay quốc xã.

Và điều gì đúng đối với các lãnh tụ thì còn đúng hơn đối với các đảng viên bình thường của phong trào nữa… [ Đường về Nô lệ, Trang 135 – 138 ]

Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, chủ nghĩa phát xít đã chính thức đầu hàng quân đồng minh ở cả ba quốc gia Đức, Ý, Nhật. Những đảng phát xít ở những quốc gia này bị buộc phải giải thể, bị xóa sổ và nhiều thành viên của chúng bị quy là tội phạm chiến tranh, bị xử tội ở các tòa án hình sự quốc tế. Tuy nhiên, những gốc rễ của thứ chủ nghĩa này vẫn hoàn toàn chưa bị tiêu diệt ở nhiều nơi trên thế giới.

Các Đảng toàn trị còn lại, đứng đầu là Đảng Cộng Sản Liên Xô và Đảng Cộng Sản Trung Quốc, tiếp tục tồn tại dưới danh nghĩa các nhà nước xã hội chủ nghĩa, đã thu hút được một lực lượng khổng lồ quần chúng nhân dân ở khu vực Đông Âu và một phần Á Châu. Hậu quả tai hại của những công cuộc cai trị này, đã được người dân của một số các quốc gia, trong đó có nhiều các quốc gia Đông Âu từng bị xáp nhập vào Nga, nổi bật là Ba Lan, nhận ra. Nhưng vẫn còn có những quốc gia khác, hoặc do người dân chưa nhận thức đầy đủ thực trạng của mình, hoặc do bè lũ lãnh đạo độc tài đã cài cắm, đã ăn sâu bám rễ quá mạnh trong đời sống của dân chúng, hút máu họ, khiến họ kiệt sức, không còn đủ nội lực để tự giải phóng mình khỏi sự cai trị đó. Họ vẫn phải tiếp tục sống thân phận Nô Lệ, cho dù hiện nay nhân loại đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp Tự Do Hóa con người.

MARX NÓI: TÔN GIÁO LÀ THUỐC PHIỆN CỦA NHÂN DÂN! THUỐC PHIỆN CỦA ĐẢNG DÀNH CHO NHÂN DÂN LÀ GÌ?

Như trong những phần trước, tôi cũng đã đề cập sơ lược đến những “liều thuốc phiện” mà các lý thuyết chủ nghĩa xã hội / chủ nghĩa phát xít / chủ nghĩa toàn trị, đã luôn chuẩn bị sẵn và tìm mọi cách để mời mọc những thành viên mới gia nhập vào hàng ngũ của mình. Liều thuốc đó thường kèm theo công thức sau đây:

Các lãnh đạo tiềm năng của các đảng độc tài toàn trị sẽ cung cấp cho (1) những trí thức mơ mộng và thường là đang có sẵn những bất mãn với điều kiện hiện tại của họ, (2) các thành phần “tiểu tư sản” có sở hữu một số tài sản nào đó, điều mà cả hai dạng người này cần: Cảm giác rằng tài năng của mình được trọng dụng, được đánh giá xứng đáng, cảm giác được trở thành vị cứu tinh của nhân loại, thỏa mãn tính háo danh của một số người, và cũng đem lại cả cảm giác an ủi to lớn rằng trí tuệ, tài sản của mình được sử dụng để làm những điều vĩ đại, đem lại lợi ích cho nhân loại [ Trong đó có cả những cá nhân có lòng nhiệt thành thực sự ]. (3) Với quần chúng nhân dân nghèo khổ, ít được tiếp cận với giáo dục [ Những gia đình nông dân, công nhân ], họ sẽ nhấn mạnh vào hoàn cảnh nghèo khổ của những người này, nhấn mạnh vào lòng căm thù họ cần phải có đối với những người giàu có hơn, tinh hoa hơn họ, nhấn mạnh rằng giấc mơ thịnh vượng, hùng cường của xã hội chủ nghĩa chắc chắn sẽ đến với họ.

Người nào còn do dự, lưỡng lự trước những lời hứa to lớn của chúng, chắc chắn sẽ có những đội ngũ tuyên truyền, làm công tác tư tưởng, tác động từ vòng trong tới vòng ngoài, từ xa tới gần, từ khuyên nhủ tới đe nẹt, từ những người bà con, đồng nghiệp, những người thân thương nhất của họ, đến khi họ phải lung lay. Người nào vẫn chống đối, kiên quyết, thì sẽ có sẵn lực lượng an ninh, mật vụ, công an chìm nổi, sẵn sàng sử dụng những biện pháp bằng vũ lực để dọa dẫm hoặc hành động thẳng tay, khiến cho họ phải quy phục.

Cũng bằng những cách thức như vậy, các Đảng độc tài, phát xít sẽ khéo léo cài cắm người vào mọi tổ chức dân sự, các tổ chức tôn giáo, các tổ chức học thuật, các tổ chức kinh tế, xã hội ở các quy mô khác nhau. Họ cũng thường xuyên “nặn” ra những cơ sở y như thật và tồn tại trên thực tế để lừa bịp dân chúng. Họ xây những thánh đường Hồi Giáo đẹp [ Ở Tân Cương Trung Quốc ], những Chùa chiền, đền tháp lộng lẫy, những Nhà Thờ tráng lệ, những Học Viện [ Chẳng hạn như Học Viện Khổng Tử ], những Mặt Trận Tổ Quốc, các tổ chức dân sự, kinh tế, từ thiện khác, với vẻ bề ngoài y như là những cơ sở do các nhóm tôn giáo, xã hội của những người dân tạo ra cho chính lợi ích của họ.

Tuy nhiên, những cơ sở này chỉ được sử dụng cho mục đích tuyên truyền của các Đảng độc tài, được quảng bá rầm rộ với những mục tiêu tiêu tốt đẹp nhất, đánh thẳng vào niềm tin của hàng chục triệu người dân thơ ngây và mù quáng. Những cơ sở đội lốt các cơ sở dân sự, tôn giáo này được lãnh đạo bởi các đảng viên trung kiên, và có hẳn một mạng lưới an ninh, tuyên truyền rộng lớn hỗ trợ họ, một mặt, để đưa nhiều người dân của những xứ này vào bẫy độc tài toàn trị, mặt khác, tạo ra hình ảnh giả tạo, nhưng đẹp đẽ, khoan dung của họ, trước con mắt của toàn dân và thế giới.

Bằng những biện pháp “tinh xảo” và phối hợp với nhau một cách có hệ thống chặt chẽ như vậy, bè nhóm của những người theo chủ nghĩa tộc tài toàn trị đã có thể bắt đầu thực thi việc xây dựng một nhà nô lệ theo ý định của họ, mà gặp rất ít cản trở từ phía dưới đẩy lên. Trong đó, họ khéo léo thay thế những niềm tin tôn giáo của dân chúng thành niềm tin vào Đảng của họ, họ biến những lãnh tụ độc tài tối cao của họ thành những lãnh tụ “tôn giáo” trong học thuyết tư tưởng của họ. Trên thực tế, dưới nhiều “lốt” khác nhau, họ chính là những người chủ nô cai trị đám đông cuồng nhiệt còn lại.

Một ví dụ cụ thể được nhà nghiên cứu Ma Tianjie viết trong bài viết “Khi Marx gặp Hồi Giáo” [ When Marx Meets Islam: https://foreignpolicy.com/2017/03/31/when-marx-meets-islam-china-religious-ethnic-policy-tension-weibo/%5D, chỉ ra:

Đảng Cộng Sản vô thần chính thức đã thấy quan điểm của mình thay đổi đáng kể về vấn đề hóc búa này [ Họ tuyên bố Đảng vô thần nhưng lại thần thánh hóa các lãnh tụ độc tài ] trong nhiều thập kỷ. Nó đã chuyển từ sự “tán tỉnh” trong những năm đầu vì lợi ích xây dựng liên minh chính trị, mở ra sự thù địch trong những nhóm khác nhau, mà điều này hoàn toàn là do kết quả của các cuộc đấu tranh chính trị nội bộ gây ra, rồi chuyển sang hòa giải trong những ngày đầu của thời kỳ Cải Cách và Mở Cửa, và cuối cùng là sự mơ hồ thận trọng xác định cách tiếp cận của nó ngày nay“.

Ở một đoạn khác, ông cũng ví tư tưởng Mao của Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng không khác nhiều hệ tư tưởng của những người Hồi Giáo quá khích, mà ông gọi là “hệ tư tưởng Mao cuồng tín“.

Thật ra, tất cả những điều này đã được nhiều nhà nghiên cứu lỗi lạc nhìn thấy từ cách chúng ta rất lâu, và vẫn luôn cố gắng cảnh báo cho chúng ta bằng nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, ở các xứ độc tài toàn trị trong thời kỳ hiện tại, người ta vẫn thấy vở kịch này được diễn lại, với những đạo diễn và những nhà biên kịch là những nhà ngụy biện và những nhà văn viết chuyện viễn tưởng giỏi nhất trong lịch sử nhân loại.

Mặc dù, nếu cẩn thận quan sát, người ta vẫn nhìn những cảnh báo về “mối nguy hại mà Đảng Cộng Sản” có thể gây ra cho nhân loại ở nhiều quốc gia, như những ví dụ dưới đây:

Ở Nhật Bản: Chủ nghĩa xã hội và cánh tả đã thất bại như thế nào [ How socialism and the left wing failed in Japan: https://www.japantimes.co.jp/news/2019/12/30/national/politics-diplomacy/socialism-japan/%5D.

Ở Đức: Các quan chức bầu cử cấm Đảng Cộng sản Đức tranh cử [ Election officials ban German Communist Party from running candidates: https://www.peoplesworld.org/article/election-officials-ban-german-communist-party-from-running-candidates/%5D.

Ở Ukraine: Đảng Cộng sản Ukraine ‘bị cấm’ đưa ra ứng cử viên cho Cuộc bầu cử Tổng Thống [ ‘Banned’ Ukrainian Communist Party puts forward candidate for Presidential Elections: https://khpg.org/en/1546645733 ].

Ở Nga: Cấm các ứng cử viên lãnh đạo Đảng Cộng Sản tham gia bầu cử [ Leading Communist barred from election by Kremlin : https://www.thetimes.co.uk/article/communist-party-candidate-unable-to-stand-against-putin-in-russian-elections-d3vzw6xlz ].

Ở Italy: Những người bảo thủ đề xuất luật cấm hoàn toàn chủ nghĩa cộng sản và Đảng Hồi Giáo ở Ý [ Conservatives Propose Law to Outright Ban Communism, Islamism in Italy: https://www.breitbart.com/europe/2021/06/08/conservatives-propose-law-to-outright-ban-communism-islamism-in-italy/ ].

Ở Trung Quốc: Đảng cộng sản ra sức đàn áp những tôn giáo khác, đặc biệt là những tôn giáo độc thần, có niềm tin mạnh mẽ, và sẵn sáng tiến tới chủ nghĩa độc tài, chẳng hạn như Islam giáo.

Trong khi đó, phần lớn các quốc gia Islam không chấp nhận chủ nghĩa xã hội / chủ nghĩa cộng sản, xuất phát từ lý do họ không công nhận những chính phủ và những con người vô thần.

Nếu ai quan sát kỹ danh sách những quốc gia có xu hướng cấm đảng cộng sản hoạt động, người ta sẽ thấy dẫn đầu thường là những quốc gia đã từng có thời gian bị đặt dưới sự lãnh đạo của chủ nghĩa phát xít hoặc chủ nghĩa xã hội, hoặc những quốc gia trong thời điểm hiện tại vẫn đang tồn tại một bộ máy cai trị theo kiểu độc tài, toàn trị.

Câu hỏi là: Do những quốc gia này có những trải nghiệm đau thương về chủ nghĩa phát xít hoặc chủ nghĩa cộng sản, nên họ hiểu những tai hại mà thứ chủ nghĩa này mang lại, hay còn có những ẩn ý nào khác nữa khiến họ phải có những biện pháp kiềm chế hoạt động của chủ nghĩa cộng sản ở quốc gia của họ?

Ngay cả câu trả lời cho những thắc mắc này cũng đã được Hayek và nhiều nhà nghiên cứu khác gợi ý cách đây đã gần 80 năm, xin được trích nguyên văn như sau:

Không có gì ngạc nhiên khi chứng kiến cảnh, ở Đức trước năm 1933 và ở Ý trước năm 1922, cộng sản và quốc xã hay phát xít thường xuyên xung đột với nhau hơn là xung đột với các đảng phái khác. Đấy là vì họ cạnh tranh với nhau trong việc thu phục những người có cùng não trạng và căm thù nhau vì đảng này coi đảng kia là những kẻ dị giáo, NHƯNG HÀNH ĐỘNG CỦA HỌ LẠI CHỨNG TỎ RẰNG ĐẤY LÀ NHỮNG KẺ ĐỒNG HỘI ĐỒNG THUYỀN. Kẻ thù thực sự của cả hai đảng, người chẳng có gì chung với họ, người mà họ chẳng thể nào thuyết phục được lại chính là người theo chủ nghĩa tự do kiểu cũ. Trong khi quốc xã coi cộng sản, cộng sản coi quốc xã và cả hai đều coi những người xã hội chủ nghĩa là đội dự bị tiềm năng của mình, thì họ lại nhận thức rõ rằng sẽ không bao giờ có chuyện thỏa hiệp giữa họ và những người thực sự tin tưởng vào quyền tự do cá nhân.

Giáo sư Eduard Heimann, một trong các lãnh tụ của phong trào xã hội chủ nghĩa mang màu sắc tôn giáo ở Đức, trong bài báo với tựa đề tuyệt vời là “Tái phát hiện chủ nghĩa tự do” đã viết như sau: “Chủ nghĩa Hitler tự tuyên bố là học thuyết dân chủ và chủ nghĩa xã hội đích thực… Chủ nghĩa Hitler còn đi xa hơn khi tuyên bố là người bảo vệ Thiên Chúa Giáo, và sự thật kinh hoàng là ngay cả sự diễn giải sai lầm thô bạo như thế vẫn tạo ấn tượng đối với một số người. Giữa sự mù mờ và tráo trở đó vẫn có một điều chắc chắn: không bao giờ Hitler tuyên bố là người ủng hộ chủ nghĩa tự do chân chính cả. Nghĩa là chủ nghĩa tự do là học thuyết bị Hitler căm ghét nhất”. Cần nói thêm rằng Hitler không có điều kiện thể hiện lòng căm thù của mình vì khi hắn lên cầm quyền thì chủ nghĩa tự do ở Đức hầu như đã chết hẳn rồi. Chính chủ nghĩa xã hội đã giết chết nó.

Đối với những người có điều kiện quan sát sự chuyển hóa từ chủ nghĩa xã hội sang chủ nghĩa phát xít ở khoảng cách tương đối gần thì mối liên hệ của hai học thuyết này càng đặc biệt rõ, CHỈ CÓ Ở NHỮNG NƯỚC DÂN CHỦ THÌ MỚI CÓ NHIỀU NGƯỜI TIẾP TỤC NGHĨ RẰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CÓ THỂ KẾT HỢP ĐƯỢC VỚI TỰ DO MÀ THÔI… [ Ở những nơi mà ], tất cả các mối liên hệ của các khía cạnh này chưa được làm rõ, thì nhiều người sẽ vẫn không tin rằng chủ nghĩa xã hội dân chủ là một giấc mơ địa đàng ( Utopia ) vĩ đại của mấy thế hệ gần đây, nó không chỉ là bất khả thi, mà cố gắng nhằm hiện thực hóa nó nhất định sẽ dẫn đến những kết quả tồi tệ khác hẳn và hoàn toàn không thể chấp nhận được đối với những người hôm nay đang ủng hộ nó [ Trang 138-141 ].

Là những con người ra đời ở những thế hệ sau, có điều kiện chứng kiến, hoặc đọc lại toàn bộ lịch sử thế giới từ sau thế chiến thứ II đến hiện nay, hẳn nhiều người cũng đồng ý rằng, những nhận định của Hayek về chủ nghĩa phát xít cũng như chủ nghĩa cộng sản, và các hình thức khác của chúng nữa là gần như hoàn toàn chính xác.

Hẳn là hình thức cai trị và tàn sát người dân trên quy mô lớn, nhân danh những mục đích cao cả, dưới những tên gọi và hình thức khác nhau được liệt kê ở dưới đây, không bao giờ có thể tìm được chỗ đứng trong những nền dân chủ tự do:

Chủ nghĩa phát xít đã phát minh ra hình thức các Trại Tập Trung; Chủ nghĩa xã hội của Liên Xô đã lập ra Các trại cải tạo lao động, theo sau là Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng xây dựng hàng loạt các Trại tập trung cải tạo, mà đặc biệt hơn ở chỗ là những trại này vẫn còn tồn tại đến tận thời điểm hiện tại.

[ Vào năm 2017, khi Việt Nam háo hức kỷ niệm 100 năm Cách Mạng Tháng Mười Nga, Giáo sư Stephen Kotkin đã viết trên The Wall Street Journal rằng chủ nghĩa cộng sản đã giết chết ít nhất 65 triệu người từ năm 1917 đến năm 2017 [ Communism’s Bloody Century: https://www.wsj.com/articles/the-communist-century-1509726265 ]. Cùng năm đó, nhà nghiên cứu David Satter, còn cho rằng có khoảng 100 triệu ngưới đã bị Đảng Cộng Sản Liên Xô sát hại bằng nhiều hình thức khác nhau trong 100 năm qua [ 100 Years of Communism—and 100 Million Dead: https://www.wsj.com/articles/100-years-of-communismand-100-million-dead-1510011810 ], và ông gọi Đảng Cộng Sản Liên Xô là thảm họa lớn nhất trong lịch sử.

Dưới một hình thức khác, Tổ chức Khmer Đỏ ở Campuchia, ( Khmer Rouge, tức Đảng Cộng Sản ở Campuchia do PolPot lãnh đạo ): Diệt chủng khoảng 1/3 trong tổng số 7 triệu người dân Cambodia.

Mặt Trận Yêu Nước Rwandan ( The Rwandan Patriotic Front ): Diệt chủng khoảng trên dưới 1 triệu người, trong đó có 70% dân số người Tutsi, 30% người Pygmy trong 100 ngày từ 7 Tháng Tư đến giữa Tháng Bảy năm 1994.

Một nghiên cứu khác của Đại học Hawaii do Giáo sư R.J. Rummel xuất bản vào năm 1991, có tên “Thế kỷ đẫm máu của Trung Quốc” [ China’s Bloody Century: https://hawaii.edu/powerkills/NOTE2.HTM ], tổng kết rằng:

Chế độ ngụy dân chủ [ Democide ] như vậy phổ biến hơn nhiều so với những gì người ta vẫn tưởng, thậm chí còn lớn hơn nhiều lần so với con số thiệt mạng trong tất cả các cuộc chiến của thế kỷ này.

Có 61,911,000 người đã bị Liên Xô sát hại, 38,702,000 bị giết bởi những người cộng sản Trung Quốc, 10,114,000 bị giết bởi những người theo chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc, 17,000,000 chết bởi Đức Quốc Xã và 5,890,000 bởi quân phiệt Nhật Bản trong Thế Chiến Thứ Hai. Điều này thậm chí không làm cạn kiệt danh sách những kẻ giết người lớn của thế kỷ này, bao gồm các chính phủ trong quá khứ của Thổ Nhĩ Kỳ, Campuchia, Pakistan, Nam Tư; cũng không bao gồm những kẻ giết người ít hơn nhưng cũng phải chịu trách nhiệm cho hàng trăm nghìn cái chết, chẳng hạn như các chính phủ trong quá khứ của Uganda, Indonesia, Albania, Burundi, Tiệp Khắc, Ethiopia, Hungary, Romania, Tây Ban Nha và Việt Nam.

Tóm lại, hơn 100,000,000 người đã bị chính phủ của họ sát hại kể từ năm 1900, nhiều hơn gấp nhiều lần so với 35,654,000 người chết vì tất cả các cuộc chiến tranh trong và ngoài nước xảy ra trong những năm này, bao gồm cả Thế chiến I và II“.

Tôi cho rằng, những con số hẳn không biết nói dối, hoặc chỉ có thể nói dối rất ít thôi. Nhiều bằng chứng lịch sử đã được tìm ra và được lưu giữ cẩn thận bởi các nhà nghiên cứu và thân nhân của những người tử nạn dưới các chế độ độc tài toàn trị trên khắp thế giới.

Nhờ có mạng lưới Internet phủ khắp toàn cầu mà ngày nay người ta hoàn toàn có thể kiểm chứng những dự đoán của Hayek cách nay đã gần 8 thập niên.

Tôi có lòng tin chắc chắn rằng, nhiều người trong số các độc giả, cũng như những thần dân của các chế độ độc tài toàn trị, có thể đọc, và hiểu, và có những cảm xúc khác nhau về những con số này, cả ở trên mặt báo, lẫn những gì “phía sau những dòng chữ” đó.

Ở đây, sự thật có thể là khó chấp nhận nhất đối với nhiều người thường xuyên phê phán chủ nghĩa phát xít và ca ngợi chủ nghĩa xã hội chính là CHỦ NGHĨA PHÁT XÍT VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI / CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN, chỉ là những hình thức khác nhau của chủ nghĩa độc tài toàn trị. Nhưng sự thật thì chỉ có Một.

Đại Lộ Nô Lệ được xây dựng trên máu, hồ hôi và nước mắt của hàng trăm triệu con người nô lệ. Đích đến của nó là Nhà Tù và chế độ Nô lệ.

Dĩ nhiên, việc khai phá Đại Lộ Tự Do chắc chắn cũng phải trả bằng mồ hôi, máu, và nước mắt tương xứng, của ít nhất là vài thế hệ. Nhưng điểm đến cuối cùng của nó là Tự Do và những giá trị lớn lao hơn mà tự do mang lại cho mỗi người.

Nếu như con đường nào cũng đánh đổi bằng mồ hôi, xương máu, nước mắt và hy sinh. Tại sao chúng ta lại phải chọn con đường về Nô Lệ?

Đằng nào cũng là xương máu của chúng ta. Tại sao chúng ta lại chọn hy sinh chỉ để trải đường cho một bộ phận lãnh đạo không có tài, đức, cũng như lòng thương xót đối với dân tộc của mình, bước lên đỉnh cao của vinh quanh và nô dịch chúng ta?

Thay vì xương máu đó là để cho chúng ta, cho gia đình, cộng đồng và cho toàn thể dân tộc của chúng ta?

Tôi chắc chắn rằng GS Hayek, từ cách thời đại mà chúng ta sống 80 năm, hẳn cũng rất mong mọi người sẽ suy nghĩ nghiêm túc về câu hỏi này.

Phần 1: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác giả: Từ Liên.

Phần 2: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek — Tóm Tắt. Tác Giả: Từ Liên.

Phần 3: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.

Tác Giả: Từ Liên.

Phần 3: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.

Tại sao chế độ xã hội chủ nghĩa không bao giờ có thể đạt được sự thịnh vượng ở trong thế giới thực như những lý tưởng mà nó đã truyền bá.

Phần tóm tắt này, tôi sẽ dành để tóm tắt và phân tích luận điểm thứ ba của GS Friedrich von Hayek:

TẠI SAO CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA KHÔNG BAO GIỜ CÓ THỂ ĐẠT ĐƯỢC SỰ THỊNH VƯỢNG Ở TRONG THẾ GIỚI THỰC NHƯ NHỮNG LÝ TƯỞNG MÀ NÓ ĐÃ TRUYỀN BÁ.

Phần 1: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác giả: Từ Liên.

Phần 2: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek — Tóm Tắt. Tác Giả: Từ Liên.

Phần 4: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.

Có hai thứ chủ nghĩa mà tính đối lập nhau của nó là khá rõ ràng và có thể quan sát được trong lịch sử cận hiện đại của thế giới. Chủ Nghĩa Tư Bản, được tôn vinh bởi những người tin vào chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do, và Chủ Nghĩa Xã Hội, được đề cao bởi những người tin vào chủ nghĩa tập thể, rồi phát triển thành chủ nghĩa toàn trị, sau đó, nó chia thành hai hoặc nhiều hơn các nhánh, trong đó có XHCN và Chủ Nghĩa Phát Xít.

“Chủ nghĩa cá nhân, có nguồn gốc từ Thiên Chúa Giáo và triết học cổ đại, vào thời Phục Hưng đã được thể hiện một cách trọn vẹn và đặt nền móng cho cái mà ngày nay chúng ta gọi là nền văn minh phương Tây. Đặc điểm chủ yếu của nó LÀ SỰ TÔN TRỌNG CÁ NHÂN CON NGƯỜI VỚI NHỮNG ĐẶC ĐIỂM RIÊNG BIỆT CỦA HỌ, nghĩa là trong sinh hoạt, dù đấy có là lĩnh vực đặc thù đến đâu, con người hoàn toàn có quyền giữ các quan điểm cũng như sở thích riêng của mình và niềm tin rằng mỗi người cần phải phát triển những năng khiếu đã được tạo hóa ban cho anh ta. Chủ nghĩa tự do cũng thường đi kèm với một giá trị quan trọng của nó, là “Khoan dung” [ Phải có sự khoan dung thì mới có chấp nhận sự khác biệt cũng như những nhu cầu khác biệt của những con người cá nhân riêng biệt ]. “Những từ này đã truyền đạt được ý nghĩa của các lí tưởng và giá trị từng ngự trị trên bầu trời suốt mấy thế kỉ qua và chỉ gần đây mới ngả dần về phía chân trời để rồi biến mất hẳn cùng với sự xuất hiện của nhà nước toàn trị” [ Trang 111-112 ].

Ở những nơi chủ nghĩa tự do phát triển, nó đồng thời cũng kéo theo “Sự nổi dậy của cá nhân chống lại cộng đồng”, biến nó thành “thứ bệnh kinh niên của phương Tây”. Tuy nhiên, việc các cá nhân có những suy nghĩ khác biệt và có những suy nghĩ vượt lên khỏi cộng đồng, lại cũng là động lực phát triển to lớn của các quốc gia Phương Tây trong suốt chiều dài lịch sử. Bất cứ xã hội nào không thể chấp nhận điều này, không tạo điều kiện cho các cá nhân kiệt xuất hơn số đông còn lại được tiến lên phía trước và tạo ra những cuộc cách mạng rực rỡ trong các lĩnh vực khác nhau, cũng có nghĩa là nó từ chối sự phát triển và thịnh vượng, cũng như từ chối quyền làm người tự do của những công dân bình thường trong xã hội.

Quá trình này đem lại kết quả ngoài mọi sự mong đợi. Ở bất cứ nơi nào, khi mà các rào cản đối với sự sáng tạo của con người được dỡ bỏ thì người ta đều có điều kiện đáp ứng các nhu cầu ngày càng gia tăng của mình… Và khi tiêu chuẩn của cuộc sống được nâng lên thì người ta lại phát hiện ra, quá trình này đã mang lại lợi ích cho tất cả các giai cấp… Thành công đã vượt mọi ước mơ ngông cuồng nhất: đến đầu thế kỉ XX người công nhân ở phương Tây đã đạt được mức độ sung túc về vật chất, sự độc lập và niềm tin vào tương lai mà một trăm năm trước tưởng như không thể nào với tới được” [ Trang 116 ].

“Nếu xem xét giai đoạn này trong một viễn cảnh lịch sử rộng lớn hơn thì phải nói rằng cảm giác hoàn toàn mới về quyền lực của con người đối với số phận và niềm tin vào khả năng cải thiện không giới hạn điều kiện sống của mình chính là kết quả có ý nghĩa nhất của tất cả các thành tựu đó” [ Trang 117 ].

Mặt khác, thành công lại sinh ra tham vọng mới, những thành tựu đã đạt được trong bước đầu này này lại đẩy con người đến tiến đến khao khát những những lý tưởng cao hơn, là có thể cải thiện điều kiện sống cho toàn thể cộng đồng lớn hơn những cộng đồng người đã đạt được những mức độ văn minh nhất định, tức vượt khỏi biên giới của các thành thị và các quốc gia Tây Âu.

Khát vọng này đã trở thành mầm mống của CNXH và CNCS bởi vì nó đã được một số những nhà tư tưởng, mơ mộng, tự tin thái quá, và dường như thiếu cái nhìn bao quát về toản cảnh của thế giới, nhồi nhét vào đầu óc của mộ bộ phận dân chúng còn kém nhận thức, rằng chỉ trong một thời gian rất ngắn, bằng việc huy động được toàn lực của cải vật chất, sức lao động và thu lại toàn bộ quyền tự do của mọi người dân, để họ quên đi bản thân họ hoàn toàn, và tập trung toàn lực cho đời sống cộng đồng, quốc gia, thì họ sẽ có khả năng biến những lý tưởng của CNXH thành hiện thực.

Khéo léo hơn, những nhà XHCN không tưởng này còn hứa hẹn với người dân của họ rằng, việc cống hiến tài sản, sức lực và quyền tự do của họ để đạt được mục tiêu thịnh vượng chung, đặt nó dưới quyền cai trị của một bộ máy độc tài toàn trị, sẽ là những gì diễn ra trong một thời gian ngắn thôi, Sau khi đã đạt được mức độ “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, vượt mọi quốc gia trong thế giới tư bản, thì “nhà nước sẽ tự tiêu vong”, trả lại quyền lực và tài sản cho người dân.

Dù phần lớn các tư tưởng mới này, trong đó có chủ nghĩa xã hội, đã đã nảy mầm từ các quốc gia Châu Âu khác bên ngoài nước Đức, “Nhưng chúng đã được trau chuốt và đạt được mức hoàn thiện trên đất Đức trong hai mươi lăm năm cuối thế kỉ XIX và hai mươi lăm năm đầu thế kỉ XX”. Điều đó giải thích việc phần nhiều trong số những nhà tư tưởng mơ mộng nhất về CNXH, là người Đức. GS Hayek giải thích rằng “Các nhà tư tưởng Đức có ảnh hưởng mạnh mẽ như thế không chỉ là vì nước Đức đã đạt được những tiến bộ to lớn trong lĩnh vực sản xuất vật chất mà còn chủ yếu là vì uy tín to lớn mà trường phái khoa học và triết học Đức đã giành được trong suốt thế kỉ qua [ Thế kỷ XVIII ], tức là sau khi Đức trở thành thành viên đầy đủ và thậm chí dẫn đầu trong nền văn minh châu Âu. Nhưng chính cái uy tín đó chẳng bao lâu sau đã giúp quảng bá cho những tư tưởng phá hoại các cơ sở của nền văn minh này” [ Trang 123-124 ].

Tuy nhiên, không cần phải chờ đến tận thế kỷ XX, ngay giữa thế kỷ XIX nhiều người đã nhìn thấy rằng, những lý tưởng của XHCN sẽ sớm tan thành mây khói vì hiển nhiên những tiềm lực và điều kiện hiện tại của con người không làm sao mà biến cái ước vọng to lớn đó thành sự thật trong chốc lát được, và lại chỉ dựa vào ý chí chủ quan của những con người mơ mộng hoặc ham muốn quyền lực, hoặc cả hai.

Cũng chính người Đức, ít nhất là những người tham gia vào việc truyền bá những tư tưởng này, chỉ sau một thời gian ngắn, đã hiểu rõ cuộc xung đột giữa những lý tưởng không tưởng của họ, với điều kiện thực tế của toàn bộ Châu Âu và toàn bộ thế giới vào cuối thế kỷ XIX. Sự lạc hậu, nghèo đói, điều kiện vệ sinh kém cỏi, dân số gia tăng nhanh so với tốc độ cải tiến kỹ thuật, giáo dục còn hạn chế đối với nhiều thành phần dân chúng trên khắp thế giới, kể cả ở nhiều phần lãnh thổ của Châu Âu, hiển nhiên đã cho thấy rằng những giấc mơ thịnh vượng mà CHXH đã hứa hẹn sẽ không bao giờ có thể thực hiện được ở bất kỳ nơi đâu trên trái đất này, nếu không có (1) khoảng thời gian dài đủ để những người trưởng thành có thể lao động cật lực để làm ra một lượng của cải vật chất vừa đủ cho nhu cầu tiêu dùng của họ trong hiện tại, lại vừa phải có dư dả để đầu tư cho tương tai, (2) để những thế hệ con cháu của họ có thể được dạy dỗ cẩn thận, có đủ kiến thức, năng lực và những điều kiện vật chất để chúng có tiến tới chỗ có thể làm chủ số phận của chúng. Mà cả hai điều này lại chỉ có thể trở thành hiện thực ở những xã hội tư bản và tôn trọng tự do cá nhân.

Thế là, niềm tin bị sụp đổ về năng lực của mình, đã khiến một bộ phận những nhà tư tưởng, những người mơ mộng, phải tìm kiếm những biện pháp cực đoan với niềm hy vọng là nó có thể níu kéo những giấc mơ của họ ở lại. Và như vậy, bản thân những tư tưởng XHCN ngay từ đầu đã buộc phải gắn với nhiều biện pháp cực đoan, và sau đó là dẫn đến việc sử sụng vũ lực cũng như dẫn đến thể chế độc tài toàn trị.

“Như vậy là chủ nghĩa xã hội đã loại bỏ được chủ nghĩa tự do và trở thành học thuyết được đa số những người tiến bộ ủng hộ, không phải là vì người ta đã quên những lời cảnh báo của các nhà tư tưởng tự do tiền bối vĩ đại về hậu quả của chủ nghĩa tập thể mà vì người ta đã thuyết phục được dân chúng rằng hậu quả sẽ hoàn toàn ngược lại.

Hiện nay ít người nhớ rằng khởi thủy chủ nghĩa xã hội đã là một phong trào độc đoán. Các nhà tư tưởng Pháp, những người đặt nền móng cho chủ nghĩa xã hội, không hề nghi ngờ gì rằng phải có một chính phủ độc tài cứng rắn thì tư tưởng của họ mới có thể trở thành hiện thực được” [ Trang 129 ].

Nếu như từ nơi ươm mầm của mình, những tư tưởng CNXH, vốn đã bắt nguồn từ niềm tin dựa trên những thành tựu phát triển kinh tế và tự do chính trị thực thụ để có thể thuyết phục người dân tin theo nó, thì khi du nhập vào những quốc gia kém phát triển hơn [ Nga, Trung Quốc, Việt Nam,… ] nó đã phải dùng những biện pháp bạo lực để có thể giành chính quyền về tay mình, chứ không phải là một hình thức thuyết phục nào khác. Và ngay từ điểm mới du nhập này, những người chủ trương sẽ sử dụng hệ tư tưởng XHCN để cai trị người dân của mình trong tương lai, đã ý thức được rằng, đã có những sự khác biệt không bao giờ có thể thể dung hòa giữa hai hệ thống tư bản chủ nghĩa và xã hội, dù họ ra sức thuyết phục dân chúng rằng CNXH chính là một bước phát triển cao hơn của chủ nghĩa tư bản, trên con đường phát triển của lịch sử nhân loại.

Các nhà lãnh đạo của chủ nghĩa tư bản đã không cần đến những cuộc cách mạng dữ dội để bắt ép những người dân phải đi theo họ, trong công cuộc xây dựng cuộc sống mà người dân mong muốn. Trong khi đó, để xây dựng một xã hội theo trật tự mà họ mong muốn, chủ nghĩa xã hội đã phải dùng vũ lực để khuất phục mọi cá nhân vẫn còn tơ tưởng đến tự do cho riêng mình trong một cái quần thể những con người bị ép phải đứng vào hàng ngũ vô sản cả về vật chất lẫn tinh thần. “Quan niệm của những người sáng lập chủ nghĩa xã hội về tự do là rất rõ ràng. Họ coi tự do tư tưởng là cội nguồn của tất cả những điều xấu xa trong xã hội thế kỉ XIX. Saint Simon, ông tổ của những người ủng hộ kế hoạch hóa thời nay, thậm chí còn dự liệu rằng những người không tuân phục các bộ phận lập kế hoạch mà ông ta đề nghị sẽ bị “đối xử như súc vật” [ Trang 130 ].

Trong một bài phát biểu vào năm 1848, Alexis de Tocqueville, nhà xã hội và chính trị học vĩ đại, đã nhận thức được rằng chế độ dân chủ và chủ nghĩa xã hội sẽ luôn dẫn đến những kết quả hoàn toàn trái ngược với nhau :

Dân chủ mở rộng không gian tự do của từng con người, trong khi chủ nghĩa xã hội hạn chế tự do. Dân chủ trao cho mỗi người tất cả các giá trị khả dĩ còn chủ nghĩa xã hội lại biến mỗi người thành một kẻ thừa hành, thành một con số tròn trĩnh. Dân chủ và chủ nghĩa xã hội chỉ có một cái chung, đấy là từ: công bằng. Nhưng xin lưu ý sự khác biệt: trong khi dân chủ tìm kiếm sự công bằng trong tự do thì chủ nghĩa xã hội tìm kiếm công bằng trong xiềng xích và nô lệ” [ Trang 131 ].

[ Tuy nhiên, trong thời kỳ hiện tại, chúng ta lại đang chứng kiến giấc mơ XHCN đang có dấu hiệu sống lại ở nhiều quốc gia tư bản có nền kinh tế và chính trị phát triển ở đỉnh cao của thế giới hiện đại ].

NHỮNG NGƯỜI THEO CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ĐÃ LỪA MỊ NGƯỜI DÂN CỦA HỌ NHƯ THẾ NÀO?

Nhằm làm dịu bớt những mối ngờ vực của người dân đối với các điều kiện quá dễ dàng để đạt được lý tưởng XHCN, và nhằm biến khát vọng tự do, một trong những động lực mạnh mẽ nhất của những người dân lao động bần hàn, những người xã hội chủ nghĩa bắt đầu sử dụng lời hứa về một nền “tự do mới”. Họ nói rằng “Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có khả năng đưa cuộc đấu tranh vì tự do diễn ra trong nhiều thế kỉ đến thắng lợi cuối cùng”. Tuy nhiên, họ đã thay đổi hoàn toàn ý nghĩa của từ “tự do”, theo nghĩa nguyên thủy của nó, là tự do làm những gì mỗi cá nhân mong muốn, tự do phát triển trọn vẹn tiềm năng của mình, miễn là không gây hại cho việc thực hành tự do cũng như lợi ích của người khác, thành một loại tự do, theo cách họ hiểu, là tự do khỏi việc sở hữu cải vật chất, tức là chiến thắng “sự áp bức của nhu cầu vật chất”, hay chính xác là phải từ bỏ mọi quyền tự do đối với những tài sản và công cụ sản xuất của mình.

Theo nghĩa này, những người dân của chế độ chủ nghĩa xã hội không cần phải lo lắng về vật chất nữa, họ sẽ dâng nộp toàn bộ của cải vật chất của họ cho nhà nước quản lý và nhà nước sẽ phân phối lại cho toàn dân theo nhu cầu của mỗi gia đình, mỗi cá nhân. Dĩ nhiên, điều này thường được kèm “với lời hứa vô trách nhiệm về sự gia tăng chưa từng có của cải vật chất trong chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa” [ Trang 132 ].

Sự lừa đảo lớn nhất của những lời hứa này là, nó không đưa ra bất cứ lộ trình sự giải thích nào, hoặc biện pháp khả dĩ nào để giúp người ta đạt sự thịnh vượng về kinh tế, chiến thắng sự nghèo nàn của tự nhiên và con người. Lời hứa này chỉ có nghĩa là nó sẽ xóa bỏ đi sự chênh lệch về sở hữu của cải vật chất giữa những tầng lớp người khác nhau.

Theo cách hiểu như thế, những người nghèo, những người ít khả năng sẽ không cần phải làm gì để cải thiện hoàn cảnh sống của mình, họ chỉ cần ngồi đó nhìn nhà nước sẽ tịch thu tài sản của những người giàu hơn họ, có nhiều khả năng đóng góp cho xã hội hơn họ và chia lại cho họ.

Trong khi đó, những người giàu, những người có khả năng hơn cũng sẽ bị tước đoạt mọi công cụ, từ vật chất tới tinh thần, để cải thiện đời sống của mình. Tồi tệ hơn, họ bị buộc phải hạ mọi chuẩn mực mà họ từng sở hữu xuống ngang bằng hoặc thấp hơn những con người thiệt thòi hơn họ trước đây, bao gồm tài sản, địa vị, trí tuệ, lòng tự trọng, phẩm giá, lương tâm. Trên thực tế, Họ đã không còn được ban cho một cơ hội nào để có thể tiếp tục phát triển bản thân lẫn đóng góp nhiều hơn cho xã hội…

Kết quả hoàn toàn có thể hình dung được, Xã hội chủ nghĩa chính là nơi người nghèo, người thất học chờ được chính quyền ném cho những miếng bánh mà họ cướp lại người khác, trong khi những người có năng lực hơn cũng phải ngồi chờ chính quyền ném cho mình những mẩu nhỏ từ chính những gì chính quyền đã cướp đoạt từ sức lao động của mình. Trong khi đó, của cải vật chất không tự động xuất hiện mà không có lao động cật lực, không có những đầu tư to lớn về con người và công cụ lao động; Thịnh Vượng không thể đến mà không có những lao động trí tuệ và cải tiến kỹ thuật; Tự Do không thể đến mà lại không có đổ máu và chấp nhận hy sinh.

Toàn bộ công cụ sản xuất bị quốc hữu hóa, cơ chế thị trường bị xóa bỏ, chỉ còn lại cơ chế tem, phiếu từ trung ương áp xuống. Con người đã hoàn toàn không còn sự lựa chọn xem họ được mua gì, ăn gì, mặc gì, sở hữu thứ gì. Hệ quả là toàn bộ động lực sáng tạo của các cá nhân sẽ bị mai một, trí tuệ cá nhân sẽ không được khai thác. Sự mất mát này là một trong những lý do dẫn đến những nhân tai mà được coi là hoàn toàn có thể tránh được đối với các xã hội tự do, chẳng hạn nạn khan hiếm lương thực thực phẩm xảy ra liên miên trong những giai đoạn khác nhau ở những quốc gia có diện tích đất đai canh tác khổng lồ và giàu tài nguyên như Liên Xô, Trung Quốc, và điều khó có thể tưởng tượng đó cũng xảy ra ở cả một đất nước được xem là vựa lúa của thế giới như Việt Nam.

Mặt khác, khi cơ chế kế hoạch hóa tập trung ngăn cản các cá nhân quyền tự tìm kiếm thu nhập và sử dụng tài sản của mình cho những mục đích dù là riêng tư nhất, tất dẫn đến những tác động tiêu cực về mặt đạo đức, thái độ, lối sống và cách ứng xử của con người. Thay vì tự do và minh bạch sử dụng tài sản, sử dụng trí tuệ của mình để làm giàu chính đáng và cải thiện hoàn cảnh sống cho bản thân, thì người ta phải lén lút làm [ Ví dụ Nhiều gia đình trong thời kỳ bao cấp đã phải lén nuôi thêm mấy con gà, mấy con heo, trồng thêm một ít rau trên mảnh đất của chính gia đình mình, họ luôn đứng trước nguy cơ bị xử phạt, bị tịch thu sản phẩm ]. Kết quả là, để có thể làm được những việc chính đáng này, họ lại phải hối lộ cho những kẻ cai trị cấp thấp ở nơi họ sinh sống, để chúng làm lơ cho họ.

Nguy hiểm hơn, việc tập trung và kế hoạch hóa nền kinh tế của XHCN được áp dụng trong một thời gian dài, và được củng cố bằng những đòn trừng phạt bạo lực của bộ máy cai trị trung ương đối với những kẻ chống đối sự áp bức mà cơ chế áp đặt lên họ, đã dạy cho người ta chỉ biết phục tùng, dần dần dẫn tới con người mất khả năng tư duy độc lập và phản biện, khiến cho người ta sợ chịu trách nhiệm cá nhân, kích thích lối sống ỷ lại, dựa dẫm vào người khác; khiến cho người ta mất động lực vươn lên và thay vào đó là tư duy bình quân chủ nghĩa.

Sự trao quyền lực quá lớn vào tay một bộ phận người không có đủ năng lực và nhân tâm mà không đòi hỏi những người này giải trình trách nhiệm hay giải thích về sự hợp lý của hành động của họ, dù là thiện hay ác, cũng từ từ khiến cho xã hội người ta mất đi cảm giác phân biệt thiện – ác trong hành động, thay vào đó bất cứ việc gì người ta cũng có thể làm nhân danh cộng đồng hay sứ mệnh cao cả.

Quyền lực cho phép một bộ phận người được ban ân huệ hoặc tước đoạt những ưu ái cho những người khác trong xã hội mà không cần phải có những lý do chính đáng, không có những chuẩn mực hợp lý, không có những cân nhắc tới các nguyên tắc đạo đức, luân lý xã hội, đã dẫn đến hệ quả là nó kích thích người ta chạy theo lối sống xin xỏ, chạy chọt để hưởng đặc quyền đặc lợi, và được quyền ban ơn huệ cho người khác, v.v…

Khi những lời hứa về XHCN đứng trước nguy cơ phá sản hoàn toàn, những người lãnh đạo của chế độ toàn trị đã không thể chấp nhận sự kém cỏi, bất tài và mơ mộng của mình. Sự bất lực đó đã được che đậy bằng việc tăng cường những biện pháp đàn áp đối với dân chúng lên tới mức tối đa, hòng bóp nghẹt tất cả mọi những tiếng nói phản biện, những đầu óc đòi tự do. Điều này lại góp phần tạo ra một hệ thống cai trị và hệ thống công an, mật vụ, ngày một phình to, nguồn lực của toàn xã hội vốn đã ít ỏi, lại bị phân bổ vào những lĩnh vực không hiệu quả, và hậu quả tất yếu là nền kinh tế của quốc gia sẽ bị suy yếu, đời sống của dân chúng bị sút kém, và bất mãn trong xã hội ngày càng gia tăng.

Bi kich vì vậy sẽ trở thành nặng nề hơn khi người ta nhận ra rằng Đường Đến Tự Do mà người ta hứa hẹn, trên thực tế lại là Đại Lộ Dẫn Về Nô Lệ” [ Trang 133 ].

VÀ NHƯ VẬY, CHỦ NGHĨA XÃ HỘI MÃI MÃI KHÔNG BAO GIỜ CÓ THỂ HOÀN THÀNH ĐƯỢC NHỮNG LỜI HỨA HẸN VÔ TRÁCH NHIỆM CỦA NÓ, NHƯ NÓ ĐÃ LỪA DỐI HÀNG TRĂM TRIỆU CON NGƯỜI TRONG HƠN MỘT THẾ KỶ QUA.

Phần 1: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác giả: Từ Liên.

Phần 2: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek — Tóm Tắt. Tác Giả: Từ Liên.

Phần 4: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.

Tác Giả: Từ Liên.

Phần 2: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek — Tóm Tắt. Tác Giả: Từ Liên.

Không biết ngoài các chế độ độc tài cộng sản, thì có chế độ nào khác trên địa cầu này tin rằng phải giết hết những người giàu, những người giỏi đi [ Trí, Phú, Địa, Hào ] thì những người nghèo, ít học và thiệt thòi sẽ được hưởng sung sướng??? Tôi hồ nghi rằng trong thế giới sơ khai của các loài động vật chúng cũng không hành động như vậy.

Phần 1: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác giả: Từ Liên.

Phần 3: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.

Phần 4: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.

NHỮNG HỆ QUẢ XẢY RA NGÀY HÔM NAY TRONG CÁC XÃ HỘI ĐỘC TÀI LÀ CÓ PHẦN LỖI CỦA CHÍNH NGƯỜI DÂN Ở NHỮNG XỨ SỞ NÀY.

Trong phần tóm tắt trước, tôi đã tóm tắt những nhận xét của tác giả Hayek liên quan tới sự ra đời của loại hình chủ nghĩa độc tài toàn trị / cai trị tập thể, cũng như những đặc điểm của hoàn cảnh và bản chất chế độ này đã thúc đẩy những người xấu xa leo lên nắm được những vị trí quyền lực chủ chốt ra sao.

Trong phần này, tôi sẽ tiếp tục tóm tắt, và phân tích một số những lập luận chủ chốt của tác giả liên quan đến những nguyên nhân mà chế độ độc tài toàn trị vẫn có thể tồn tại trên thế giới này, ở những nơi có số lượng dân cư rất đáng kể. Chỉ một nhúm nhỏ chiếm khoảng 5% dân chúng, lại không phải là thành phần tinh hoa, sáng suốt, đã có khả năng biến cả một xã hội đông đúc, gồm nhiều thành phần khác nhau, thành một đàn cừu khổng lồ nằm dưới sự cai trị của chúng. Điều này y như những gì nhà viết kịch Ted Tally đã ngụ ý trong tác phẩm “Sự Im Lặng Của Bầy Cừu” [ The Silence of the Lambs ], đã được chuyển thể thành phim điện ảnh vào năm 1991.

Tuy nhiên, khác với nhiều học giả khác, vốn có chỉ tập trung vào đổ lỗi MỘT CHIỀU cho những kẻ tham vọng đã sử dụng mọi mưu mẹo và các biện pháp thiếu chính đáng để nhảy lên vũ đài chính trị nắm quyền, Hayek đã chỉ rằng, những đau khổ mà người dân của những xứ độc tài toàn trị đang phải chịu đựng CŨNG LÀ KẾT QUẢ CỦA CHÍNH NHỮNG MƠ MỘNG THIẾU CHÍNH ĐÁNG CỦA HỌ, VÀ SỰ IM LẶNG CỦA HỌ TRƯỚC SỰ PHÁT TRIỂN LIÊN TỤC CỦA NHỮNG MẦM MỐNG XẤU XA. Ông viết:

“Trong quá trình phát triển, khi nền văn minh bỗng làm một cú rẽ ngoặt bất ngờ, khi đáng lẽ phải là tiến bộ thì ta lại phát hiện thấy những mối đe dọa từ tất cả các hướng, dường như đang đưa ta trở về thời kì mông muội, thế là chúng ta sẵn sàng kết án tất cả mọi thứ, TRỪ CHÍNH CHÚNG TA”.

Chúng ta chẳng đã lao động hết mình với những lí tưởng trong sáng nhất đó sao? Để cải tạo thế giới, những con người thông thái nhất chẳng đã suy nghĩ nát óc đó sao? Chúng ta chẳng đã từng mơ ước và hi vọng có nhiều tự do hơn, nhiều công bằng hơn và sung túc hơn đó sao? Và nếu kết quả khác xa với mục tiêu – nếu thay cho tự do và thịnh vượng lại là cảnh nô lệ và bần hàn – thì đấy có phải là sự can thiệp của những lực lượng đen tối, làm hỏng các dự định của chúng ta, có phải là chúng ta đã trở thành nạn nhân của một thế lực độc ác nào đó, phải đánh bại nó thì mới mong trở lại được con đường dẫn tới hạnh phúc hay không?

Ai có lỗi? Dù câu trả lời có là gì đi chăng nữa, dù đấy có thể là tên tư sản độc ác, dù đấy có thể là bản tính xấu xa của một dân tộc nào đó, dù đấy có thể là sự ngu dốt của các thế hệ cha anh hay dù đấy là hệ thống xã hội vẫn chưa được lột xác hoàn toàn, dù chúng ta đã đấu tranh chống lại suốt nửa thế kỉ qua – thì tất cả chúng ta đều tin tưởng tuyệt đối một điều ( ít nhất là cho đến tận thời gian gần đây chúng ta vẫn tin như thế ): Các tư tưởng chính yếu, được công nhận rộng rãi trong thế hệ vừa qua và hiện vẫn được những người tử tế dùng làm kim chỉ nam trong tiến trình cải tạo xã hội, KHÔNG THỂ LÀ NHỮNG TƯ TƯỞNG SAI LẦM.

Chúng ta sẵn sàng chấp nhận mọi lời giải thích cho cuộc khủng hoảng hiện nay của nền văn minh của chúng ta trừ một nguyên nhân: CUỘC KHỦNG HOẢNG NÀY CHÍNH LÀ HẬU QUẢ CỦA MỘT SAI LẦM MANG TÍNH NGUYÊN TẮC, ĐẤY CHÍNH LÀ VIỆC THEO ĐUỔI MỘT VÀI LÝ TƯỞNG YÊU QUÝ CỦA CHÚNG TA ĐÃ ĐƯA ĐẾN NHỮNG KẾT QUẢ KHÁC XA NHỮNG ĐIỀU CHÚNG TA KỲ VỌNG. [ Đường Về Nô Lệ, Chương I ].

Điều này, là điều dường như đã được nhiều độc giả nhìn thấy ở những mức độ khác nhau trong những xứ độc tài toàn trị, Trung Quốc, Nga, Belarus, Venezuela, Cuba, Campuchia, Triều Tiên, và dĩ nhiên là Việt Nam.

Chân thành mà nói, không phải người dân của những xứ sở này đã không nhìn thấy những tấm gương phản chiếu những hệ quả đáng ghê tởm của những gì mà các lãnh đạo toàn trị này đã làm với dân chúng của mình, trong suốt một thế kỷ qua: Những cuộc diệt chủng không gớm tay của Stalin, của Mao Trạch Đông, của Đặng Tiểu Bình, đối với chính dân tộc của mình, trong đó có cả những thành phần hết sức tinh hoa, lỗi lạc, mà sự góp sức của họ có thể làm thay đổi hoàn toàn số phận của dân tộc, đối với chính đồng đội kề vai sát cánh của mình trong thời kỳ tiến hành cách mạng, đối với những dân tộc thiểu số yếu ớt, và đối với những dân tộc láng giềng “môi hở răng lạnh”…

Số liệu của một số nghiên cứu trên thế giới, trong đó có trường College Mount Holyoke [ https://www.mtholyoke.edu/acad/intrel/pol116/genocides.htm ], đưa ra, có thể khiến người ta giật mình. Chẳng hạn như, Riêng Trung Cộng, trong các giai đoạn 1958-1961; 1966-1969 [ ở Trung quốc ]; ở Tây Tạng [ 1949-1950 ]: Có khoảng từ 49,000,000-78,000,000 những người bị tra tấn dã man, bị bỏ tù cho tới chết, bị giết chết trong các cuộc thanh trừng, trong cuộc Đại Nhảy Vọt [ Great Leap Forward ], và trong Cách Mạng Văn Hóa [ Cultural Revolution ]. Hậu quả để lại cho cả tình trạng kinh tế lẫn tinh thần của người dân là hết sức khốc liệt, mà cho tới giờ này vẫn còn tiếp diễn.

Ở Liên Bang Xô Viết, [ USSR ], từ 1932-1939, có khoảng 23,000,000 người chết trong các cuộc thanh trừng cũng như chết vì nạn đói do thiếu hụt thực phẩm ở Ukraine.

Ở Đức, từ năm 1939-1945 có khoảng 12,000,000 dân thường cũng như người Do Thái và các dân tộc khác ở Đức bị bắt giam và chết trong các trại tập trung của Đức Quốc Xã.

Ở Miền Bắc Việt Nam, mặc dù các lãnh tụ Đảng Cộng Sản đã nhìn thấy phần nào hệ quả tàn nhẫn của của cải cách ruộng đất ở Trung Cộng, và những chương trình cải cách tương tự ở Liên Xô, nhưng họ vẫn bắt tay với các cố vấn Trung Cộng để tiến hành với dân tộc mình. Chỉ riêng ba năm cải cách ruộng đất ( 1953-1955 ), các số liệu khác nhau đã dẫn từ dưới một chục ngàn tới vài chục ngàn những người bị quy là địa chủ bị xử tử. Trong khi đó, theo bài viết “Phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất, Tạp chí Xưa&Nay, Hà Nội, số 297, 2007, trang 10-15”, “tổng số người bị quy là địa chủ trong Cải cách ruộng đất đã được thống kê là 172,008 người; trong đó số người bị quy sai là 123,266 người, chiếm tỷ lệ 71.66%”.

Không biết dựa trên những cơ sở nào mà những người tổ chức cải cách ruộng đất đã đề xuất rằng mỗi địa phương phải tìm ra một chỉ tiêu là 5% địa chủ để kết án, quy tội, chẳng khác gì họ tìm cách diệt chủng người dân của mình bằng những biện pháp nghe có vẻ hợp lý đối với một bộ phận dân chúng.

Không biết ngoài các chế độ độc tài cộng sản, thì có chế độ nào khác trên địa cầu này tin rằng phải giết hết những người giàu, những người giỏi đi [ Trí, Phú, Địa, Hào ] thì những người nghèo, ít học và thiệt thòi sẽ được hưởng sung sướng??? Tôi hồ nghi rằng trong thế giới sơ khai của các loài động vật chúng cũng không hành động như vậy.

Mà đó là mới chỉ riêng số địa chủ bị quy sai, chưa kể những tù nhân chính trị bị ép vào các tội chống lại Đảng Cộng Sản, các trí thức thích phát minh, sáng kiến, các văn nghệ sĩ yêu tự do, các tiểu thương, người giàu có từ việc làm ăn chân chính, và thậm chí đã dành nhiều sự giúp đỡ to lớn cho chính quyền Việt Cộng.

Tàn nhẫn hơn, đằng sau họ là còn những người vợ, những ông bố, bà mẹ, những đứa con, các bằng hữu, thân hữu, và kể cả cộng đồng của họ, cũng phải gánh chịu hậu quả của cuộc cải cách này, nhưng hầu như đã không được tính tới. Thật khó mà hình dung “phần dưới của tảng băng”, tức con số tổng cộng những nạn nhân trực tiếp và gián tiếp của các công cuộc cải cách kiểu như thế này đã gây ra. Tất cả những gì chúng ta có thể thấy cho tới giờ phút này vẫn chỉ là “phần nổi của tảng băng”.

Người dân của những xứ này họ thấy hết những hậu quả thảm khốc và tang thương của các cuộc cải cách này đó chứ, thế nhưng họ vẫn đồng tình với chính quyền và tiếp tục tin rằng, CHÍNH QUYỀN DO CHÚNG TÔI ỦNG HỘ THÌ KHÔNG BAO GIỜ LẠI CÓ THỂ SAI ĐƯỢC.

Và chúng ta thấy rằng mới đây thôi, trong các cuộc chặn bắt dân chúng ra đường trong thời kỳ phong tỏa, các phường đã “ra chỉ tiêu” số người dân phải bị chặn bắt để nộp phạt trong ngày cho lực lượng dân phòng, cảnh sát để họ thi hành chặn bắt người dân. 70 năm đã qua rồi mà “chỉ tiêu”“kế hoạch” là điều chưa bao giờ bị xóa bỏ trong những đầu óc xơ cứng của tà quyền cộng sản.

Ngoạn mục hơn, trong cải cách ruộng đất, người dân của cái xứ độc tài này còn được tham gia vào một vở bi kịch bỉ ổi nhất do Đảng Cộng Sản đạo diễn, vở kịch có tên “Tố cáo những thành phần phản động, đối lập với Đảng”.

Trong vở bi kịch vĩ đại và đẫm máu này, một bộ phận to lớn dân ở miền Bắc đã đồng ý để cho một nhúm người cộng sản từ rừng rú tiến xuống, chỉ biết vài chữ bẻ đôi, và mấy thứ học thuyết sáo rỗng, đạp lên vài ngàn năm văn hóa văn vật của họ một cách không thương tiếc. Mấy ngàn năm được học về Lạc Long Quân và Âu Cơ, học về “Bầu ơi thương lấy bí cùng”, học về “Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”, học rằng “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”, học về Tam tòng tứ đức, Học về đạo cha con, vợ chồng, về tình huynh đệ, trong một phút chốc, bị đạp nát vụn vỡ. Giờ thì con tố cha, mẹ, vợ tố chồng, bạn bè tố nhau, để tranh công trước đảng. Bao nhiêu luân thường đạo lý của tổ tiên đã gầy dựng, gìn giữ, gắng sức truyền lại cho con cháu mình trong cả ngàn năm, phút chốc tan theo mây khói.

Không biết có nỗi đau nào trong tất cả những nỗi đau của những dân tộc bị cai trị bởi bè lũ độc tài lại có thể gây tổn thương hơn, đau đớn hơn những bi kịch này không? Không biết có sự đổ vỡ nào trong nền văn hóa của bất kỳ một dân tộc nào lại có thể để lại những vết thương sâu sắc và khó lành lặn như những vết thương mà sự sụp đổ của nền luân thường đạo lý gây ra không? Không biết có sự thiệt hại nào đối với bất kỳ quốc gia, dân tộc nào lại có thể lớn hơn sự thiệt hại đến từ việc diệt chủng một bộ phận tinh hoa, có khả năng mở mang đầu óc cho phần lớn dân chúng nữa hay không?

Không biết có ai trong số những người đang đọc bài viết này lại muốn đến đời của con cháu mình, để giữ được sinh mạng nô lệ của mình trong một hoàn cảnh nào đó, bọn con cháu bị tẩy não và nhồi sọ đó sẽ sẵn sàng đối xử với chúng ta theo cái cách đã diễn ra trong thời cải cách ruộng đất không?

Cộng sản không phải là con người, mà có lẽ cũng chẳng được là con vật bình thường. Chẳng phải người ta thường nói, “Hổ dữ không ăn thịt con đó sao”?

Có cái giống loài gì mà không thương yêu con cái và gia đình mình, nó lại có thể thương yêu con cái của kẻ khác, những giống loài khác được chăng?

Không có luân thường đạo lý, liệu đời sống của con người có hơn đời sống của các loài động vật thấp kém nhất không?

Người dân của những xứ này có nhìn thấy bài học lịch sử bi tráng và đẫm lệ này không ?

Họ có đấy, nhưng họ vẫn nhắm mắt làm ngơ.

Mùa dịch bệnh năm 2021 này, tà quyền cộng sản vẫn ra chiến dịch tố giác người bị nhiễm bệnh mà không khai báo đó thôi, bất chấp người đó là ai đi chăng nữa? Và nó vẫn thu lại kết quả đấy thôi. Người ta vẫn hoan hỉ vì tố cáo được nhau.

Để đưa mình lên cao, người ta không cần phải nỗ lực và lao động, người ta nhất thiết phải dùng biện pháp hạ người khác xuống, dù là những biện pháp đê tiện nhất.

Sau năm 1975, sau khi hai miền bị thống nhất làm một, người dân của cái xứ sở này, người ta đã chứng kiến những cuộc bắt bớ, thanh trừng, những cuộc cải tạo trên quy mô lớn để “tẩy não” những người đã sống nhiều năm dưới chế độ tư bản, tự do ở Miền Nam. Hệ quả của những biện pháp tàn nhẫn, máy móc, và vô cảm này là hàng triệu con người đã chấp nhận đối mặt với cái chết để bỏ xứ sở ra đi. Cuộc tháo chạy khỏi chế độ cộng sản ở Miền Nam cũng đưa lại nhiều kết quả bi thương và thảm khốc cho đến giờ vẫn chưa thể tổng kết lại được, nhưng ít nhất, người Miền Nam VẪN CAN ĐẢM HƠN người Bắc Cộng rất nhiều, vì họ đã không chấp nhận việc phải chà đạp lên luân thường đạo lý của họ để mà giữ lại cái sinh mệnh nhỏ nhoi của mình.

Dân Việt Nam có thấy điều đó không? Họ thấy rõ như ban ngày.

Nhưng sự mơ mộng của họ đối với những viễn tưởng mà tà quyền cộng sản vẽ ra cho họ như “cơm no áo ấm, thịnh vượng, hùng cường, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, chấn động năm châu, vang dội địa cầu”, là quá có sức hấp dẫn. Họ tin rằng họ chẳng cần phải làm gì cả, chỉ phải trao toàn bộ tài sản của họ cho nhà nước quản lí. Họ tin rằng họ chỉ phải trao toàn bộ quyền tự do của họ vào tay tà quyền độc tài, và chấp nhận để bộ máy của tà quyền giải quyết tất cả mọi việc thì họ sẽ được ăn ngon, ngủ yên.

Họ tin rằng chẳng phải lao động chăm chỉ và chẳng cần nuôi dưỡng lòng khát khao tìm kiếm tri thức, họ tin rằng chẳng phải nhọc óc suy nghĩ hay phải chấp nhận những khó khăn thách thức, thậm chí phải đổ máu, thì mới có thể kiến tạo nên con đường dẫn tới thịnh vượng,

Họ tin rằng chẳng phải học hành, chẳng phải đọc sách, chẳng phải dạy dỗ con cái về tình yêu đối với sự thật, chẳng phải trải qua những kinh nghiệm đau đớn, chẳng phải vun bồi lòng tự trọng, thì con người vẫn có thể trở nên văn minh và nhân bản được …

Kết quả là, những gì đồi bại nhất và kém cỏi nhất mà xã hội ngày hôm nay bộc lộ ra chính là hệ quả của những giấc mơ địa đàng của một bộ phận đông đảo dân chúng, [ Giấc mơ địa đàng là từ đã được Hayek sử dụng làm tựa đề chương số II của Đường Về Nô Lệ ], không phải chỉ là hệ quả của tầng lớp tà quyền thống trị họ. Điều này nhiều lần được Hayek nhận xét trong suốt tác phẩm của ông, là, NÓ THẬT KHÓ ĐỂ CHẤP NHẬN VỚI BẤT KỲ AI, VÌ PHẦN LỚN CHÚNG TA KHÔNG CHỊU ĐỰNG ĐƯỢC VIỆC CHÍNH MÌNH LÀ NGƯỜI CÓ LỖI HAY LÀ NGƯỜI THẤT BẠI.

Hậu quả là vào thập niên XX của thế kỷ XXI, người dân nhập cư từ miền đất của những người chiến thắng Miền Nam, chứ không phải dân Miền Nam, hay là người dân Sài Gòn, lại tiếp tục phải tháo chạy về quê của họ, để trốn chạy những hậu quả mà chế độ độc tài cộng sản đã gây ra cho họ ở Miền Nam trong thời kỳ hiện tại. Kế hoạch biến Sài Gòn từ một Hòn Ngọc Viễn Đông thành một trại tập trung cải tạo của cộng sản hình như đã thu được thành quả.

Nhiều người nói rằng, Miền Nam thua thì hãy chịu thua đi, để cho bên thắng cuộc người ta cai trị. Bao nhiêu năm rồi tại sao không chấp nhận mình là người thua cuộc???

Dạ vâng, Sài Gòn thua, Miền Nam thua, điều này đâu thể chối cãi nữa.

Nhưng xin quý vị cũng đừng quên rằng các nhà nước Ai Cập, Lưỡng Hà, Hy Lạp, La Mã hết sức văn minh và rực rỡ trong các nền văn minh cổ đại cũng đã sụp đổ vì các cuộc xâm lược của BỌN MAN TỘC, bởi những dân tộc KÉM VĂN MINH, GIÀU BẠO LỰC. Và sự tàn phá của những bộ lạc man tộc này đối với lịch sử Châu Âu là khủng khiếp và tàn nhẫn đến nỗi cả 10 thế kỷ sau, sau bao gian nan và nỗ lực, họ mới có thể gầy dựng để phục hưng trở lại [ Từ thế kỷ V đến thế kỷ XV ].

Xa hơn nữa, người dân Việt Nam có nhìn thấy, đọc thấy trên các phương tiện truyền thông, Internet về những gì xảy ra ở những nhà nước toàn trị trên khắp thế giới này không?

Ở Liên Xô, ở Trung Quốc, ở Iraq, ở Campuchia, ở Cuba, ở Bắc Triều Tiên…

Họ đã thấy Liên Xô hùng cường, thành trì vững chắc của CNCS sụp đổ, hàng ngàn các dân tộc bước ra từ đó, đã cảm thấy chói mắt trước ánh sáng mặt trời của thế giới tự do, mọi người đã nhìn thấy người Đông Đức mạo hiểm mạng sống bỏ chạy qua Tây Đức, bức tường Berlin sụp đổ, mọi người đã thấy sự thịnh vượng của Nam Hàn đối lập với sự nghèo khổ, lạc hậu, tù túng của Bắc Triều Tiên. Mọi người cũng được nhìn thấy cảnh thu hoạch nội tạng của những người tập Pháp Luân Công, những cuộc đàn áp đối với người Duy Ngô Nhĩ, những cuộc xâm chiếm đất đai của người Tây Tạng, những công cuộc hủy diệt văn hóa đối với người Nội Mông, và gần hơn, những cuộc đàn áp tự do đẫm máu ở Hong Kong.

Nhưng mọi người vẫn nuôi hy vọng rằng: Ồ, những chuyện đó xảy ra ở đâu đó chứ không phải là ở xứ của mình, không phải là xảy ra đối với mình, và con cháu mình.

Thậm chí ngay cả khi có nhiều bằng chứng khoa học cho thấy rằng, người Việt Nam đang phải ăn nhiều thực phẩm có dư lượng chất độc cao, và tỷ lệ bệnh tật liên quan tới đường tiêu hóa [ Ung thư dạ dày, ung thư gan, ung thư trực tràng ] và đường thở của người Việt Nam [ ung thư phổi, ung thư khí quản ] cao lên một cách đáng báo động, thì tà quyền Việt Cộng vẫn mở rộng biên giới cho người láng giềng bốn tốt và mười sáu chữ vàng mang từ thực phẩm, hàng hóa, tới cả các loại thuốc trị bệnh vào để tàn sát dân mình.

Và nhiều người Việt Nam vẫn hân hoan đón nhận, cảm ơn Đảng, cảm ơn Nhà Nước, cảm ơn Trung Cộng. Phóng viên Lã Nghĩa Hiếu viết bài cho báo Thanh Niên bữa ngày 01/08/2021, đề rằng “Hàng vạn người Quảng Ninh vui mừng được tiêm vắc xin Sinopharm”, sau khi bài báo bị phản đối dữ dội, và đánh một ( 1 ) sao, thì anh ta bỏ đi chữ vui mừng, sửa lại thành “Hàng vạn người dân tại Quảng Ninh, đặc biệt là cư dân biên giới đã được tiêm vắc xin phòng Covid-19, loại Vero Cell của hãng Sinopharm”.

Người dân Việt Nam có nhìn thấy các cuộc đấu tranh của người dân ở các xứ sở độc tài không? Từ Nga, tới Beralus, Venezuela, Hong Kong, mới đây là Myanmar, Cuba, Thái Lan…

Họ thấy chứ, nhưng họ nói: Nhìn xem, mấy người đó có làm được gì đâu? Họ đều thất bại và bị trấn áp hết rồi?

Có ai tự hỏi rằng, sự thất bại của những con người yêu tự do đó, có phần góp sức to lớn của những người ĐỜI ĐỜI MUỐN LÀM NÔ LỆ?

Coi mấy cái videos mà các dư luận viên của tà quyền cộng sản làm trên YouTube về Cuba vào giữa Tháng Bảy, 2021, tôi đọc thấy hàng chục ngàn người Việt Nam đã vào đó hô hào thề thốt rằng họ sẵn sàng đổ máu để giúp Cuba giữ lại cái chế độ thối nát của mình. Họ ra vẻ là họ không sợ đổ máu, không sợ chiến tranh. Hàng ngàn người ca ngợi Trung Quốc là người anh cả vĩ đại, sắp vượt Âu, Mỹ và thống trị toàn thế giới. Nghe có vẻ như người Việt Nam hiểu biết nhiều lắm, dũng cảm anh hùng lắm.

Phải chi nhiêu đó con người biết nói như vậy trên cái xứ sở Việt Cộng này thì có lẽ tình hình đã khác.

Phải chi nhiêu đó con người ráng học hành cho đàng hoàng, hiểu biết cho tường tận, dạy dỗ con cái cho tử tế, thì cái xứ sở này đã xinh đẹp và đáng sống biết bao nhiêu.

Như các nhà lãnh đạo độc tài của họ, họ chỉ giỏi chém gió mấy chuyện xảy ra ở xứ người đã được định hướng bởi bọn dư luận viên ăn lương cộng sản. Họ không nhìn sâu vào để thấy số phận thảm khốc của những dân tộc đó, cũng chính là số phận của con cháu họ trong tương lai: Bị tước mất văn hóa, lịch sử, quyền làm người, bị thu hoạch nội tạng, bị tẩy não, phải sống đời sống như những con súc vật, phải bới rác ngoài thùng rác của quan chức cộng sản.

Số phận của mỗi dân tộc còn là lựa chọn của mỗi người dân ở xứ đó nữa …

Thật khó để không đồng ý với ông tác giả Hayek rằng, chừng nào người dân của các xứ sở độc tài vẫn chưa thôi chìm đắm trong những giấc mơ địa đàng, vẫn chưa thôi bám vào những lí do này, lí do khác để biện minh cho hiện tình của dân tộc mình, thì ngày đó, chế độ tà quyền, độc tài vẫn còn yên tâm về vị trí thống trị của chúng.

Các quốc gia Châu Âu phát triển, Nhật Bản, Hàn quốc hưng thịnh, chẳng phải vì những lãnh đạo của họ đã luôn phải xin lỗi dân chúng và nhận trách nhiệm về mình trước những chính sách sai lầm của họ đó sao?

Không lẽ người Việt Nam lại giàu tự trọng hơn những người đó, hơn những cái dân tộc đó, để không thể nhận phần trách nhiệm của mình đối với số phận của mình và con cháu mình sao?

Hồi Tháng Năm, 2017, ông Bộ Trưởng Mai Tiến Dũng, người phát ngôn của chính phủ Việt Cộng, đã nói trong buổi họp về báo về vụ việc Đồng Tâm, “Nếu chúng ta sai, chúng ta nhận lỗi trước dân. Nếu dân sai thì dân phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Câu nói cho thấy đảng của ông ta có quyền lực vượt lên mọi pháp luật, mọi hiến pháp, mọi Hiến Chương Nhân Quyền.

Liệu có ai nghe những câu phát biểu như thế này mà lại không chạnh lòng, mà không có cảm giác lo lắng cho số phận của các thế hệ con cháu chúng ta trong tương lai chăng?

Phần 1: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác giả: Từ Liên.

Phần 3: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.

Phần 4: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.

Tác giả: Từ Liên.