CHỦ NGHĨA PHÁT XÍT VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CHỈ LÀ NHỮNG TÊN GỌI, HÌNH THỨC KHÁC NHAU CỦA CHỦ NGHĨA ĐỘC TÀI TOÀN TRỊ.
Phần 1: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác giả: Từ Liên.
Phần 2: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek — Tóm Tắt. Tác Giả: Từ Liên.
Phần 3: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.
Trong những năm gần đây, thế giới đã chứng kiến những sự kiện xuất hiện ở một vài quốc gia Châu Âu, và đặc biệt là ở Hoa Kỳ, khiến cho nhiều người liên tưởng tới sự nảy sinh của những mầm mống CNXH, ở những vùng đất nằm bên ngoài những quốc gia vẫn còn theo hệ thống này trong thời kỳ hiện đại.
Trong bối cảnh như vậy, dường như nhiều quốc gia đã quên rằng từ cách nay hơn một thế kỷ, đã có những nhà nghiên cứu kinh tế, chính trị, xã hội, trong đó có Alexis de Tocqueville, có Hayek, bằng những khảo cứu nghiêm túc về lịch sử của xã hội loài người, bằng những quan sát và trải nghiệm thực tiễn của họ, đã liên tục cảnh báo nhân loại, rằng có rất nhiều nguy cơ luôn rình rập xung quanh cuộc sống của con người để đánh lừa con người và dụ dỗ họ đi ra khỏi cánh cửa rộng mở của thế giới của chủ nghĩa tự do và chui vào trong tấm lưới sắt “chủ nghĩa độc tài toàn trị“.
Xin được trích nguyên văn ở đây những nhận xét của tác giả Hayek cách nay gần 80 năm về điều này:
“Nhưng trong mấy năm gần đây [ Thời điểm Hayek viết cuốn sách này, 1942-1943 ], các ý kiến bàn về những hậu quả không thể lường được của chủ nghĩa xã hội, tưởng như đã rơi vào quên lãng từ lâu, lại được gióng lên với một sức mạnh mới và từ những hướng bất ngờ nhất. Các nhà quan sát, hết người này đến người khác, xuất phát từ những xu hướng hoàn toàn trái ngược nhau, ĐÃ NHẬN RA SỰ TƯƠNG ĐỒNG ĐẾN KINH NGẠC GIỮA CHỦ NGHĨA PHÁT XÍT VÀ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN. Trong khi những người “tiến bộ” ở Anh và ở một số nơi khác tiếp tục tự lừa mình rằng chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát xít là những hiện tượng trái ngược nhau thì càng ngày càng có nhiều người tự hỏi rằng phải chăng các chính thể chuyên chế mới nổi đó có cùng cội rễ.“
Kết luận mà Max Eastman, một người bạn cũ của Lenin, rút ra đã làm cho ngay cả những người cộng sản cũng phải choáng váng. “Chủ nghĩa Stalin”, ông viết, “không những không tốt hơn mà còn xấu hơn cả chủ nghĩa phát xít vì nó tàn nhẫn hơn, dã man hơn, bất công hơn, vô luân và thiếu dân chủ hơn, không thể biện hộ bằng hi vọng hay sám hối”. Rồi ông viết tiếp: “Đúng hơn, phải gọi nó là siêu phát xít” khi nó [ tìm mọi biện pháp ] để theo đuổi quá trình quốc hữu hóa và tập thể hóa, và xây dựng xã hội phi giai cấp”.
Ghi nhận của Eastman là rất đáng chú ý, nhưng đây không phải là trường hợp duy nhất khi một nhà quan sát vốn có thiện cảm với các cuộc thí nghiệm ở Nga rút ra kết luận tương tự. Mấy năm trước, William Henry Chamberlin, một nhà báo Mĩ từng sống ở Nga suốt mười hai năm, đã chứng kiến sự đổ vỡ tất cả các lí tưởng của mình khi ông tiến hành tổng kết những điều quan sát được và so sánh kinh nghiệm ở Liên Xô với kinh nghiệm ở Đức và Ý: “Chủ nghĩa xã hội, ít nhất là trong những giai đoạn đầu, không phải là con đường dẫn tới tự do mà là tới chế độ độc tài và các phong trào chống lại độc tài, dẫn tới những cuộc nội chiến khốc liệt nhất. Giành và giữ chủ nghĩa xã hội bằng các phương pháp dân chủ, hòa bình dĩ nhiên là điều không tưởng”.
Frederick Augustus Voigt, một nhà báo người Anh, sau khi quan sát các sự kiện ở Châu Âu, cũng rút ra kết luận tương tự như thế: “Chủ nghĩa Marx đã dẫn đến chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa xã hội quốc gia vì về bản chất nó chính là chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa xã hội quốc gia”.
Còn Walter Lippmann thì tin rằng: “Thế hệ chúng ta, bằng chính kinh nghiệm của mình, sẽ nhận ra rằng từ bỏ tự do nhân danh tổ chức cưỡng bức sẽ đưa người ta đến đâu. Tưởng rằng sẽ được giàu sang, ai ngờ trên thực tế người ta lại trở thành nghèo túng. Còn khi lãnh đạo có tổ chức được tăng cường thì cũng là lúc tính đa dạng phải nhường chỗ cho sự đơn điệu. Đấy là cái giá phải trả cho xã hội được lập kế hoạch và cách tổ chức công việc của con người theo lối độc tài”
Có thể tìm thấy vô số những điều khẳng định tương tự trong các tác phẩm được công bố mấy năm gần đây, đặc biệt là của những người vốn là công dân của các nước đã bước chân lên con đường phát triển toàn trị,những người từng trải qua giai đoạn chuyển đổi và buộc phải xem xét lại quan điểm của mình là có sức thuyết phục hơn cả. Xin dẫn ra ở đây một lời phát biểu nữa, của một người Đức, có thể cũng nói ý tương tự, nhưng thể hiện rõ hơn bản chất của vấn đề.
Niềm tin vào tính khả thi của tự do và công bằng theo lí luận của Marx đã hoàn toàn đổ vỡ, Peter Drucker viết, “đấy chính là lí do thúc đẩy nước Nga bước lên con đường dẫn tới xã hội toàn trị, đầy cấm đoán, phi kinh tế, thiếu tự do và đầy bất công mà nước Đức đã theo. Không, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát xít không phải là những thực thể giống nhau. Chủ nghĩa phát xít là giai đoạn tiếp theo, sau khi chủ nghĩa cộng sản đã chứng tỏ rằng đấy chỉ là một ảo tưởng, như đã từng xảy ra ở Nga dưới thời Stalin cũng như ở Đức trước khi Hitler cướp được chính quyền.”
Sự chuyển hóa về mặt trí tuệ của các lãnh tụ quốc xã và phát xít cũng có ý nghĩa không kém. Những người theo dõi quá trình phát triển của các phong trào này ở Ý hay ở Đức, không thể không ngạc nhiên khi thấy rất nhiều lãnh tụ, từ Mussolini trở xuống, kể cả Pierre Laval ( một trong những lãnh tụ Đảng cộng sản Pháp), và Vidkun Quisling ( một trong những lãnh tụ của đảng Cực Hữu Na Uy ), đã khởi đầu như những người xã hội chủ nghĩa, để cuối cùng trở thành những tên phát xít hay quốc xã.
Và điều gì đúng đối với các lãnh tụ thì còn đúng hơn đối với các đảng viên bình thường của phong trào nữa… [ Đường về Nô lệ, Trang 135 – 138 ]
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, chủ nghĩa phát xít đã chính thức đầu hàng quân đồng minh ở cả ba quốc gia Đức, Ý, Nhật. Những đảng phát xít ở những quốc gia này bị buộc phải giải thể, bị xóa sổ và nhiều thành viên của chúng bị quy là tội phạm chiến tranh, bị xử tội ở các tòa án hình sự quốc tế. Tuy nhiên, những gốc rễ của thứ chủ nghĩa này vẫn hoàn toàn chưa bị tiêu diệt ở nhiều nơi trên thế giới.
Các Đảng toàn trị còn lại, đứng đầu là Đảng Cộng Sản Liên Xô và Đảng Cộng Sản Trung Quốc, tiếp tục tồn tại dưới danh nghĩa các nhà nước xã hội chủ nghĩa, đã thu hút được một lực lượng khổng lồ quần chúng nhân dân ở khu vực Đông Âu và một phần Á Châu. Hậu quả tai hại của những công cuộc cai trị này, đã được người dân của một số các quốc gia, trong đó có nhiều các quốc gia Đông Âu từng bị xáp nhập vào Nga, nổi bật là Ba Lan, nhận ra. Nhưng vẫn còn có những quốc gia khác, hoặc do người dân chưa nhận thức đầy đủ thực trạng của mình, hoặc do bè lũ lãnh đạo độc tài đã cài cắm, đã ăn sâu bám rễ quá mạnh trong đời sống của dân chúng, hút máu họ, khiến họ kiệt sức, không còn đủ nội lực để tự giải phóng mình khỏi sự cai trị đó. Họ vẫn phải tiếp tục sống thân phận Nô Lệ, cho dù hiện nay nhân loại đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp Tự Do Hóa con người.
MARX NÓI: TÔN GIÁO LÀ THUỐC PHIỆN CỦA NHÂN DÂN! THUỐC PHIỆN CỦA ĐẢNG DÀNH CHO NHÂN DÂN LÀ GÌ?
Như trong những phần trước, tôi cũng đã đề cập sơ lược đến những “liều thuốc phiện” mà các lý thuyết chủ nghĩa xã hội / chủ nghĩa phát xít / chủ nghĩa toàn trị, đã luôn chuẩn bị sẵn và tìm mọi cách để mời mọc những thành viên mới gia nhập vào hàng ngũ của mình. Liều thuốc đó thường kèm theo công thức sau đây:
Các lãnh đạo tiềm năng của các đảng độc tài toàn trị sẽ cung cấp cho (1) những trí thức mơ mộng và thường là đang có sẵn những bất mãn với điều kiện hiện tại của họ, (2) các thành phần “tiểu tư sản” có sở hữu một số tài sản nào đó, điều mà cả hai dạng người này cần: Cảm giác rằng tài năng của mình được trọng dụng, được đánh giá xứng đáng, cảm giác được trở thành vị cứu tinh của nhân loại, thỏa mãn tính háo danh của một số người, và cũng đem lại cả cảm giác an ủi to lớn rằng trí tuệ, tài sản của mình được sử dụng để làm những điều vĩ đại, đem lại lợi ích cho nhân loại [ Trong đó có cả những cá nhân có lòng nhiệt thành thực sự ]. (3) Với quần chúng nhân dân nghèo khổ, ít được tiếp cận với giáo dục [ Những gia đình nông dân, công nhân ], họ sẽ nhấn mạnh vào hoàn cảnh nghèo khổ của những người này, nhấn mạnh vào lòng căm thù họ cần phải có đối với những người giàu có hơn, tinh hoa hơn họ, nhấn mạnh rằng giấc mơ thịnh vượng, hùng cường của xã hội chủ nghĩa chắc chắn sẽ đến với họ.
Người nào còn do dự, lưỡng lự trước những lời hứa to lớn của chúng, chắc chắn sẽ có những đội ngũ tuyên truyền, làm công tác tư tưởng, tác động từ vòng trong tới vòng ngoài, từ xa tới gần, từ khuyên nhủ tới đe nẹt, từ những người bà con, đồng nghiệp, những người thân thương nhất của họ, đến khi họ phải lung lay. Người nào vẫn chống đối, kiên quyết, thì sẽ có sẵn lực lượng an ninh, mật vụ, công an chìm nổi, sẵn sàng sử dụng những biện pháp bằng vũ lực để dọa dẫm hoặc hành động thẳng tay, khiến cho họ phải quy phục.
Cũng bằng những cách thức như vậy, các Đảng độc tài, phát xít sẽ khéo léo cài cắm người vào mọi tổ chức dân sự, các tổ chức tôn giáo, các tổ chức học thuật, các tổ chức kinh tế, xã hội ở các quy mô khác nhau. Họ cũng thường xuyên “nặn” ra những cơ sở y như thật và tồn tại trên thực tế để lừa bịp dân chúng. Họ xây những thánh đường Hồi Giáo đẹp [ Ở Tân Cương Trung Quốc ], những Chùa chiền, đền tháp lộng lẫy, những Nhà Thờ tráng lệ, những Học Viện [ Chẳng hạn như Học Viện Khổng Tử ], những Mặt Trận Tổ Quốc, các tổ chức dân sự, kinh tế, từ thiện khác, với vẻ bề ngoài y như là những cơ sở do các nhóm tôn giáo, xã hội của những người dân tạo ra cho chính lợi ích của họ.
Tuy nhiên, những cơ sở này chỉ được sử dụng cho mục đích tuyên truyền của các Đảng độc tài, được quảng bá rầm rộ với những mục tiêu tiêu tốt đẹp nhất, đánh thẳng vào niềm tin của hàng chục triệu người dân thơ ngây và mù quáng. Những cơ sở đội lốt các cơ sở dân sự, tôn giáo này được lãnh đạo bởi các đảng viên trung kiên, và có hẳn một mạng lưới an ninh, tuyên truyền rộng lớn hỗ trợ họ, một mặt, để đưa nhiều người dân của những xứ này vào bẫy độc tài toàn trị, mặt khác, tạo ra hình ảnh giả tạo, nhưng đẹp đẽ, khoan dung của họ, trước con mắt của toàn dân và thế giới.
Bằng những biện pháp “tinh xảo” và phối hợp với nhau một cách có hệ thống chặt chẽ như vậy, bè nhóm của những người theo chủ nghĩa tộc tài toàn trị đã có thể bắt đầu thực thi việc xây dựng một nhà nô lệ theo ý định của họ, mà gặp rất ít cản trở từ phía dưới đẩy lên. Trong đó, họ khéo léo thay thế những niềm tin tôn giáo của dân chúng thành niềm tin vào Đảng của họ, họ biến những lãnh tụ độc tài tối cao của họ thành những lãnh tụ “tôn giáo” trong học thuyết tư tưởng của họ. Trên thực tế, dưới nhiều “lốt” khác nhau, họ chính là những người chủ nô cai trị đám đông cuồng nhiệt còn lại.
Một ví dụ cụ thể được nhà nghiên cứu Ma Tianjie viết trong bài viết “Khi Marx gặp Hồi Giáo” [ When Marx Meets Islam: https://foreignpolicy.com/2017/03/31/when-marx-meets-islam-china-religious-ethnic-policy-tension-weibo/%5D, chỉ ra:
“Đảng Cộng Sản vô thần chính thức đã thấy quan điểm của mình thay đổi đáng kể về vấn đề hóc búa này [ Họ tuyên bố Đảng vô thần nhưng lại thần thánh hóa các lãnh tụ độc tài ] trong nhiều thập kỷ. Nó đã chuyển từ sự “tán tỉnh” trong những năm đầu vì lợi ích xây dựng liên minh chính trị, mở ra sự thù địch trong những nhóm khác nhau, mà điều này hoàn toàn là do kết quả của các cuộc đấu tranh chính trị nội bộ gây ra, rồi chuyển sang hòa giải trong những ngày đầu của thời kỳ Cải Cách và Mở Cửa, và cuối cùng là sự mơ hồ thận trọng xác định cách tiếp cận của nó ngày nay“.
Ở một đoạn khác, ông cũng ví tư tưởng Mao của Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng không khác nhiều hệ tư tưởng của những người Hồi Giáo quá khích, mà ông gọi là “hệ tư tưởng Mao cuồng tín“.
Thật ra, tất cả những điều này đã được nhiều nhà nghiên cứu lỗi lạc nhìn thấy từ cách chúng ta rất lâu, và vẫn luôn cố gắng cảnh báo cho chúng ta bằng nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, ở các xứ độc tài toàn trị trong thời kỳ hiện tại, người ta vẫn thấy vở kịch này được diễn lại, với những đạo diễn và những nhà biên kịch là những nhà ngụy biện và những nhà văn viết chuyện viễn tưởng giỏi nhất trong lịch sử nhân loại.
Mặc dù, nếu cẩn thận quan sát, người ta vẫn nhìn những cảnh báo về “mối nguy hại mà Đảng Cộng Sản” có thể gây ra cho nhân loại ở nhiều quốc gia, như những ví dụ dưới đây:
Ở Nhật Bản: Chủ nghĩa xã hội và cánh tả đã thất bại như thế nào [ How socialism and the left wing failed in Japan: https://www.japantimes.co.jp/news/2019/12/30/national/politics-diplomacy/socialism-japan/%5D.
Ở Đức: Các quan chức bầu cử cấm Đảng Cộng sản Đức tranh cử [ Election officials ban German Communist Party from running candidates: https://www.peoplesworld.org/article/election-officials-ban-german-communist-party-from-running-candidates/%5D.
Ở Ukraine: Đảng Cộng sản Ukraine ‘bị cấm’ đưa ra ứng cử viên cho Cuộc bầu cử Tổng Thống [ ‘Banned’ Ukrainian Communist Party puts forward candidate for Presidential Elections: https://khpg.org/en/1546645733 ].
Ở Nga: Cấm các ứng cử viên lãnh đạo Đảng Cộng Sản tham gia bầu cử [ Leading Communist barred from election by Kremlin : https://www.thetimes.co.uk/article/communist-party-candidate-unable-to-stand-against-putin-in-russian-elections-d3vzw6xlz ].
Ở Italy: Những người bảo thủ đề xuất luật cấm hoàn toàn chủ nghĩa cộng sản và Đảng Hồi Giáo ở Ý [ Conservatives Propose Law to Outright Ban Communism, Islamism in Italy: https://www.breitbart.com/europe/2021/06/08/conservatives-propose-law-to-outright-ban-communism-islamism-in-italy/ ].
Ở Trung Quốc: Đảng cộng sản ra sức đàn áp những tôn giáo khác, đặc biệt là những tôn giáo độc thần, có niềm tin mạnh mẽ, và sẵn sáng tiến tới chủ nghĩa độc tài, chẳng hạn như Islam giáo.
Trong khi đó, phần lớn các quốc gia Islam không chấp nhận chủ nghĩa xã hội / chủ nghĩa cộng sản, xuất phát từ lý do họ không công nhận những chính phủ và những con người vô thần.
Nếu ai quan sát kỹ danh sách những quốc gia có xu hướng cấm đảng cộng sản hoạt động, người ta sẽ thấy dẫn đầu thường là những quốc gia đã từng có thời gian bị đặt dưới sự lãnh đạo của chủ nghĩa phát xít hoặc chủ nghĩa xã hội, hoặc những quốc gia trong thời điểm hiện tại vẫn đang tồn tại một bộ máy cai trị theo kiểu độc tài, toàn trị.
Câu hỏi là: Do những quốc gia này có những trải nghiệm đau thương về chủ nghĩa phát xít hoặc chủ nghĩa cộng sản, nên họ hiểu những tai hại mà thứ chủ nghĩa này mang lại, hay còn có những ẩn ý nào khác nữa khiến họ phải có những biện pháp kiềm chế hoạt động của chủ nghĩa cộng sản ở quốc gia của họ?
Ngay cả câu trả lời cho những thắc mắc này cũng đã được Hayek và nhiều nhà nghiên cứu khác gợi ý cách đây đã gần 80 năm, xin được trích nguyên văn như sau:
“Không có gì ngạc nhiên khi chứng kiến cảnh, ở Đức trước năm 1933 và ở Ý trước năm 1922, cộng sản và quốc xã hay phát xít thường xuyên xung đột với nhau hơn là xung đột với các đảng phái khác. Đấy là vì họ cạnh tranh với nhau trong việc thu phục những người có cùng não trạng và căm thù nhau vì đảng này coi đảng kia là những kẻ dị giáo, NHƯNG HÀNH ĐỘNG CỦA HỌ LẠI CHỨNG TỎ RẰNG ĐẤY LÀ NHỮNG KẺ ĐỒNG HỘI ĐỒNG THUYỀN. Kẻ thù thực sự của cả hai đảng, người chẳng có gì chung với họ, người mà họ chẳng thể nào thuyết phục được lại chính là người theo chủ nghĩa tự do kiểu cũ. Trong khi quốc xã coi cộng sản, cộng sản coi quốc xã và cả hai đều coi những người xã hội chủ nghĩa là đội dự bị tiềm năng của mình, thì họ lại nhận thức rõ rằng sẽ không bao giờ có chuyện thỏa hiệp giữa họ và những người thực sự tin tưởng vào quyền tự do cá nhân.“
Giáo sư Eduard Heimann, một trong các lãnh tụ của phong trào xã hội chủ nghĩa mang màu sắc tôn giáo ở Đức, trong bài báo với tựa đề tuyệt vời là “Tái phát hiện chủ nghĩa tự do” đã viết như sau: “Chủ nghĩa Hitler tự tuyên bố là học thuyết dân chủ và chủ nghĩa xã hội đích thực… Chủ nghĩa Hitler còn đi xa hơn khi tuyên bố là người bảo vệ Thiên Chúa Giáo, và sự thật kinh hoàng là ngay cả sự diễn giải sai lầm thô bạo như thế vẫn tạo ấn tượng đối với một số người. Giữa sự mù mờ và tráo trở đó vẫn có một điều chắc chắn: không bao giờ Hitler tuyên bố là người ủng hộ chủ nghĩa tự do chân chính cả. Nghĩa là chủ nghĩa tự do là học thuyết bị Hitler căm ghét nhất”. Cần nói thêm rằng Hitler không có điều kiện thể hiện lòng căm thù của mình vì khi hắn lên cầm quyền thì chủ nghĩa tự do ở Đức hầu như đã chết hẳn rồi. Chính chủ nghĩa xã hội đã giết chết nó.
Đối với những người có điều kiện quan sát sự chuyển hóa từ chủ nghĩa xã hội sang chủ nghĩa phát xít ở khoảng cách tương đối gần thì mối liên hệ của hai học thuyết này càng đặc biệt rõ, CHỈ CÓ Ở NHỮNG NƯỚC DÂN CHỦ THÌ MỚI CÓ NHIỀU NGƯỜI TIẾP TỤC NGHĨ RẰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CÓ THỂ KẾT HỢP ĐƯỢC VỚI TỰ DO MÀ THÔI… [ Ở những nơi mà ], tất cả các mối liên hệ của các khía cạnh này chưa được làm rõ, thì nhiều người sẽ vẫn không tin rằng chủ nghĩa xã hội dân chủ là một giấc mơ địa đàng ( Utopia ) vĩ đại của mấy thế hệ gần đây, nó không chỉ là bất khả thi, mà cố gắng nhằm hiện thực hóa nó nhất định sẽ dẫn đến những kết quả tồi tệ khác hẳn và hoàn toàn không thể chấp nhận được đối với những người hôm nay đang ủng hộ nó [ Trang 138-141 ].
Là những con người ra đời ở những thế hệ sau, có điều kiện chứng kiến, hoặc đọc lại toàn bộ lịch sử thế giới từ sau thế chiến thứ II đến hiện nay, hẳn nhiều người cũng đồng ý rằng, những nhận định của Hayek về chủ nghĩa phát xít cũng như chủ nghĩa cộng sản, và các hình thức khác của chúng nữa là gần như hoàn toàn chính xác.
Hẳn là hình thức cai trị và tàn sát người dân trên quy mô lớn, nhân danh những mục đích cao cả, dưới những tên gọi và hình thức khác nhau được liệt kê ở dưới đây, không bao giờ có thể tìm được chỗ đứng trong những nền dân chủ tự do:
Chủ nghĩa phát xít đã phát minh ra hình thức các Trại Tập Trung; Chủ nghĩa xã hội của Liên Xô đã lập ra Các trại cải tạo lao động, theo sau là Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng xây dựng hàng loạt các Trại tập trung cải tạo, mà đặc biệt hơn ở chỗ là những trại này vẫn còn tồn tại đến tận thời điểm hiện tại.
[ Vào năm 2017, khi Việt Nam háo hức kỷ niệm 100 năm Cách Mạng Tháng Mười Nga, Giáo sư Stephen Kotkin đã viết trên The Wall Street Journal rằng chủ nghĩa cộng sản đã giết chết ít nhất 65 triệu người từ năm 1917 đến năm 2017 [ Communism’s Bloody Century: https://www.wsj.com/articles/the-communist-century-1509726265 ]. Cùng năm đó, nhà nghiên cứu David Satter, còn cho rằng có khoảng 100 triệu ngưới đã bị Đảng Cộng Sản Liên Xô sát hại bằng nhiều hình thức khác nhau trong 100 năm qua [ 100 Years of Communism—and 100 Million Dead: https://www.wsj.com/articles/100-years-of-communismand-100-million-dead-1510011810 ], và ông gọi Đảng Cộng Sản Liên Xô là thảm họa lớn nhất trong lịch sử.
Dưới một hình thức khác, Tổ chức Khmer Đỏ ở Campuchia, ( Khmer Rouge, tức Đảng Cộng Sản ở Campuchia do PolPot lãnh đạo ): Diệt chủng khoảng 1/3 trong tổng số 7 triệu người dân Cambodia.
Mặt Trận Yêu Nước Rwandan ( The Rwandan Patriotic Front ): Diệt chủng khoảng trên dưới 1 triệu người, trong đó có 70% dân số người Tutsi, 30% người Pygmy trong 100 ngày từ 7 Tháng Tư đến giữa Tháng Bảy năm 1994.
Một nghiên cứu khác của Đại học Hawaii do Giáo sư R.J. Rummel xuất bản vào năm 1991, có tên “Thế kỷ đẫm máu của Trung Quốc” [ China’s Bloody Century: https://hawaii.edu/powerkills/NOTE2.HTM ], tổng kết rằng:
“Chế độ ngụy dân chủ [ Democide ] như vậy phổ biến hơn nhiều so với những gì người ta vẫn tưởng, thậm chí còn lớn hơn nhiều lần so với con số thiệt mạng trong tất cả các cuộc chiến của thế kỷ này.
Có 61,911,000 người đã bị Liên Xô sát hại, 38,702,000 bị giết bởi những người cộng sản Trung Quốc, 10,114,000 bị giết bởi những người theo chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc, 17,000,000 chết bởi Đức Quốc Xã và 5,890,000 bởi quân phiệt Nhật Bản trong Thế Chiến Thứ Hai. Điều này thậm chí không làm cạn kiệt danh sách những kẻ giết người lớn của thế kỷ này, bao gồm các chính phủ trong quá khứ của Thổ Nhĩ Kỳ, Campuchia, Pakistan, Nam Tư; cũng không bao gồm những kẻ giết người ít hơn nhưng cũng phải chịu trách nhiệm cho hàng trăm nghìn cái chết, chẳng hạn như các chính phủ trong quá khứ của Uganda, Indonesia, Albania, Burundi, Tiệp Khắc, Ethiopia, Hungary, Romania, Tây Ban Nha và Việt Nam.
Tóm lại, hơn 100,000,000 người đã bị chính phủ của họ sát hại kể từ năm 1900, nhiều hơn gấp nhiều lần so với 35,654,000 người chết vì tất cả các cuộc chiến tranh trong và ngoài nước xảy ra trong những năm này, bao gồm cả Thế chiến I và II“.
Tôi cho rằng, những con số hẳn không biết nói dối, hoặc chỉ có thể nói dối rất ít thôi. Nhiều bằng chứng lịch sử đã được tìm ra và được lưu giữ cẩn thận bởi các nhà nghiên cứu và thân nhân của những người tử nạn dưới các chế độ độc tài toàn trị trên khắp thế giới.
Nhờ có mạng lưới Internet phủ khắp toàn cầu mà ngày nay người ta hoàn toàn có thể kiểm chứng những dự đoán của Hayek cách nay đã gần 8 thập niên.
Tôi có lòng tin chắc chắn rằng, nhiều người trong số các độc giả, cũng như những thần dân của các chế độ độc tài toàn trị, có thể đọc, và hiểu, và có những cảm xúc khác nhau về những con số này, cả ở trên mặt báo, lẫn những gì “phía sau những dòng chữ” đó.
Ở đây, sự thật có thể là khó chấp nhận nhất đối với nhiều người thường xuyên phê phán chủ nghĩa phát xít và ca ngợi chủ nghĩa xã hội chính là CHỦ NGHĨA PHÁT XÍT VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI / CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN, chỉ là những hình thức khác nhau của chủ nghĩa độc tài toàn trị. Nhưng sự thật thì chỉ có Một.
Đại Lộ Nô Lệ được xây dựng trên máu, hồ hôi và nước mắt của hàng trăm triệu con người nô lệ. Đích đến của nó là Nhà Tù và chế độ Nô lệ.
Dĩ nhiên, việc khai phá Đại Lộ Tự Do chắc chắn cũng phải trả bằng mồ hôi, máu, và nước mắt tương xứng, của ít nhất là vài thế hệ. Nhưng điểm đến cuối cùng của nó là Tự Do và những giá trị lớn lao hơn mà tự do mang lại cho mỗi người.
Nếu như con đường nào cũng đánh đổi bằng mồ hôi, xương máu, nước mắt và hy sinh. Tại sao chúng ta lại phải chọn con đường về Nô Lệ?
Đằng nào cũng là xương máu của chúng ta. Tại sao chúng ta lại chọn hy sinh chỉ để trải đường cho một bộ phận lãnh đạo không có tài, đức, cũng như lòng thương xót đối với dân tộc của mình, bước lên đỉnh cao của vinh quanh và nô dịch chúng ta?
Thay vì xương máu đó là để cho chúng ta, cho gia đình, cộng đồng và cho toàn thể dân tộc của chúng ta?
Tôi chắc chắn rằng GS Hayek, từ cách thời đại mà chúng ta sống 80 năm, hẳn cũng rất mong mọi người sẽ suy nghĩ nghiêm túc về câu hỏi này.
Phần 1: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác giả: Từ Liên.
Phần 2: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek — Tóm Tắt. Tác Giả: Từ Liên.
Phần 3: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.
Tác Giả: Từ Liên.
4 thoughts on “Phần 4: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.”