Ở những phần trước, tôi đã tóm tắt và phân tích những lập luận của GS Haykek về 4 luận điểm : (1) Sự xuất hiện của các thể chế độc tài toàn trị và Bản chất của những con người lãnh đạo ở những thể chế đó; (2) Tại sao các thể chế độc tài toàn trị không bao giờ có thể thực hiện lời hứa hoang đường của họ về tự do và thịnh vượng cho những cộng đồng dân cư mà họ cai trị; (3) Người dân của những nước sống dưới chế độ độc tài cũng cần tự chịu trách nhiệm vì đã cho phép chế độ độc tài cai trị và áp bức họ; (4) Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa phát xít chỉ là hai tên gọi khác nhau của Chủ nghĩa độc tài toàn trị.
Trong phần cuối cùng này, tôi xin tóm tắt và phân tích những GỢI Ý của GS Hayek về những biện pháp mà những người dân đang sống dưới chế độc độc tài toàn trị có thể suy nghĩ, cân nhắc, để tự quyết định xem mình có nên rời bỏ Con Đường Nô Lệ để xây dựng Con Đường Tự Do cho bản thân mình và dân tộc mình.
Cá nhân tôi cho rằng đây là một trong những chương quan trọng nhất của tác phẩm Đường Về Nô Lệ. Nếu như vì một lý do nào đó mà chương này đã bị khiếm khuyết đi, thì có lẽ tác phẩm này sẽ không được coi là hoàn thiện, có ý nghĩa sâu sắc, và khó có thể có sức sống mãnh liệt như vậy trong suốt 80 năm qua.
Dù chỉ là những “gợi ý” từ một trí thúc lỗi lạc, nhìn từ góc độ của một người Phương Tây, và đối tượng nhắm tới là những quốc gia Châu Âu thời kỳ hậu Thế Chiến Thứ II, nhưng tôi tin rằng mỗi người dân trên thế giới này đều có thể tìm ra một vài điểm đồng điệu nào đó. Từ góc độ của mình, từ hoàn cảnh của mình, từ thực tiễn xã hội của mình, mỗi người có thể sẽ tìm ra những cách thức riêng để đóng góp cho nền tự do của bản thân, cũng như cộng đồng và dân tộc.
Từ thuở hồng hoang, con người đã phục tùng những hiện tượng tự nhiên mà họ tin rằng do những đấng siêu nhiên toàn năng tạo ra. Họ đã tôn sùng những vị thần mà họ không thể thấy hình dạng, nhưng họ xem sự hiện diện của các Ngài là một phần trong cuộc sống thường nhật của họ. Và cũng không thể chối bỏ rằng, sự phục tùng này trong buổi đầu, đã tạo điều kiện cho sự phát triển của nền văn minh. Sự sợ hãi những lực lượng Tự nhiên đầy quyền năng đó, khiến con người biết cách tôn trọng thiên nhiên, lòng sợ hãi sự trừng phạt của đấng Siêu Nhiên làm nảy sinh những quy chuẩn đạo đức và phép tắc trong cư xử giữa con người với nhau trong xã hội loài người, thúc đẩy họ thực hiện những bổn phận và nghĩa vụ của mình đối với gia đình, cộng đồng, và môi trường tự nhiên.
“Nhờ sự phục tùng như thế mà hằng ngày chúng ta mới có thể đóng góp một phần sức lực của mình để xây dựng nên những chuyện thần kì mà không một người nào trong chúng ta có thể hiểu hết được” [ Trang 457 ].
Mặt khác, GS Hayek cũng lập luận rằng rằng, ngay kể trong các xã hội nguyên thủy sơ khai như vậy, vẫn đã xuất hiện những cá nhân sáng suốt và có tư duy vượt khỏi bầy đàn, khỏi cộng đồng, những người đã có khả năng nhìn xuyên qua những tấm màn bao phủ các hiện tượng tự nhiên khủng khiếp và hư ảo đó, tiếp cận được phần nào sự thật. Họ đã đoán được những dấu hiệu “nổi giận” của tự nhiên nhờ vào nhiều dấu hiện lặp đi lặp lại ngày càng rõ ràng trước khi những hiện tượng này xảy ra. Họ lờ mờ hiểu được những nguyên lý khoa học ở phía sau sự thịnh nộ của các lực lượng Siêu Nhiên này. Tuy vậy, trong bối cảnh tri thức của phần lớn con người sống trong các xã hội nguyên thủy còn quá hữu hạn, việc “giải thích một cách duy lý về sự cần thiết phải phục tùng các lực lượng, mà cơ chế hoạt động của nó ta vẫn chưa nắm được một cách cụ thể là việc cực kì khó, [ khó hơn rất nhiều so với việc khuyên người ta ] là phục tùng chúng” [ Trang 461 ].
Những con người nguyên thủy nhưng sáng suốt, và có đầu óc nhìn xa trông rộng đó, họ biết rằng sớm hay muộn gì cũng đến một ngày con người sẽ tích lũy được nhiều kinh nghiệm hơn nhờ học hỏi những thế hệ trước, và ngày đó, họ có thể truyền lại những gì họ hiểu biết. Trong khi chờ đến lúc đó, họ đã âm thầm làm những công việc của mình, như gieo những hạt mầm vào lòng đất và thí nghiệm những điều kiện sống phù hợp nhất với hạt mầm đó, chờ một ngày chúng nảy nở, tái sinh thành những cái cây mạnh mẽ.
Xem xét từ khía cạnh lịch sử đó, Hayek rút ra kết luận rằng, NẾU NHƯ MỖI NGƯỜI CHỈ BIẾT ĐI THEO ĐÁM ĐÔNG, HOẶC NGỒI YÊN, VÀ KHÔNG CHỊU LÀM BẤT CỨ VIỆC GÌ KHI ANH TA CHƯA HIỂU BIẾT ĐƯỢC SỰ CẦN THIẾT CỦA NÓ, THÌ CHẮC CHẮN XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI ĐÃ KHÔNG THỂ TIẾN XA ĐẾN NHƯ NGÀY HÔM NAY … [ Trang 461 ]. Đôi khi, chính thái độ không chịu phục tùng những điều kiện tự nhiên áp đặt lên chúng ta, mà loài người đã từng bước một, giải phóng mình khỏi thế giới mê muội và tăm tối, dò dẫm đi về phía ánh sáng. Nhờ vào sự cố gắng bền bỉ không ngừng của những cá nhân như thế trong suốt nhiều thế hệ, mà con người đã đạt đến một hoàn cảnh sống đáng ngưỡng mộ như thời điểm đầu thế kỷ XX.
[ Ở đây, tác giả cũng khẳng định rằng, những khía cạnh tốt của việc thực hành tôn trọng thiên nhiên [ dưới dạng một tôn giáo hoặc một hình thức thờ cúng ] và việc duy trì những giá trị đạo đức nguyên thủy, vẫn giữ nguyên giá trị trong đời sống loài người hiện đại. Việc xem thường, xuyên tạc, loại bỏ những giá trị luân lý, đạo đức của quá khứ, vốn đã được chứng minh qua nhiều giai đoạn thăng trầm, có khả năng sẽ đưa tới sự hủy diệt của bất kỳ một nền văn minh nào trong thời kỳ hiện tại ].
Tuy nhiên, cũng thật đáng thất vọng, vì bất chấp những “Khát khao giải thoát khỏi những trói buộc mà con người đã nhận thức được, song người ta lại không hiểu rằng những trói buộc của hệ thống chuyên chế mà họ sẽ tự giác khoác lên mình còn nặng nề và đau khổ hơn nhiều” [ So với những gì các đấng Siêu Nhiên mang đến cho con người ] [ Trang 462 ].
Con đường tiến tới Tự Do và Thịnh Vượng, mà ông gợi ý ở đây là “chúng ta phải tìm cách phối hợp những cố gắng của các cá nhân với “những lực lượng siêu nhiên” [ Đại diện cho những giá trị văn hóa, lịch sử, đạo đức, định hình loài người chúng ta, trong so sánh với các loại động vật khác ]. Tiến trình kết hợp những sức mạnh này, dù có diễn ra ở quy mô nào đi chăng nữa, phải diễn ra một cách tự nguyện và dân chủ, tôn trọng sự khác biệt giữa những cá nhân: “ý tưởng then chốt là tự do cá nhân KHÔNG THỂ HÒA HỢP với quyền uy tuyệt đối mà cả xã hội phải phục tùng một cách toàn diện và vĩnh viễn” [ Trang 463 ].
Ông cũng bổ sung, “Ngoại lệ duy nhất [ Đối với việc cá nhân phải hy sinh phần nào tự do cá nhân của mình ], là tình trạng chiến tranh hay những thảm họa tạm thời khác, khi mà hầu như tất cả đều phải phục vụ cho nhu cầu bức bách trước mắt“. Nhưng, điều này cũng chỉ có ý nghĩa là “Cái giá chúng ta phải trả trong ngắn hạn nhằm bảo vệ sự tự do của chúng ta trong dài hạn“. Có nghĩa là, chúng ta chấp nhận hy sinh, vì chúng ta tin rằng, chính quyền của thời kỳ hậu chiến / hậu thảm họa, sẽ bảo vệ cho quyền làm người Tự Do của chúng ta.
Cũng đứng trên nguyên tắc này, ông đã khẳng định rằng, có nhiều thứ thuộc về thời chiến sẽ không thể áp dụng lại trong thời bình được, “Điều đó giải thích tại sao nhiều câu nói thịnh hành hiện nay rằng trong thời bình chúng ta cũng sẽ làm những việc như chúng ta đã học làm trong thời chiến là những câu nói hoàn toàn sai: có thể tạm thời hi sinh tự do để trong tương lai tự do càng vững chắc hơn, nhưng không thể nói như thế được nếu hệ thống phi tự do như thế trở thành vĩnh cửu” [ Trang 463 ].
Tuy nhiên, ở những nhà nước độc tài toàn trị, chúng ta không khó để thấy rằng, có nhiều mô hình từ kinh tế, chính trị tới văn hóa, là những sản phẩm “con đẻ” của thời kỳ chiến tranh, vẫn tiếp tục tồn tại dai dẳng trong xã hội hiện đại, trở thành những lực cản to lớn cho sự phát triển của xã hội hiện tại.
Ở Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên… nhà nước nắm độc quyền về mọi lĩnh vực sinh tử đối với mỗi cá nhân, cộng đồng người, từ lương thực thực phẩm, tới năng lượng, giao thông vận tải, tài nguyên thiên nhiên, giáo dục, y tế. Các thành viên vừa thiếu khả năng, vừa thiếu nhân tâm của Đảng độc tài và bộ máy cai trị khổng lồ của họ vươn ra như những cái vòi bạch tuộc, bám vào khắp mọi nơi để hút cạn kiệt đi những nguồn lực tốt nhất mà xã hội có thể tích lũy, chúng không còn chừa lại một không gian nào cho những cá nhân có đầu óc tự do, những cộng đồng đặc thù, những nhà khoa học, các chuyên gia trong các lĩnh vực, những người thực hành tôn giáo, đạo đức, để họ làm công việc của mình.
Kết quả là, chúng ta đã được nhìn thấy những thiệt hại về kinh tế, văn hóa, giáo dục vô cùng thảm khốc đối với những dân tộc này, như đã đề cập ở những phần trước.
Ngay vào thời điểm này đây, khi dịch bệnh virus Vũ Hán quét qua thế giới, chúng ta cũng đang được chứng kiến những thất bại đau đớn, không còn có thể che dấu bằng bất cứ thứ vỏ bọc nào nữa, và cũng không còn đáng để tha thứ, nhìn từ bất cứ phương diện nào, của bộ máy lãnh đạo toàn trị của các đảng độc tài, trong đó có Việt Nam.
Ở Việt Nam, cho dù chiến tranh đã qua từ bao nhiêu thập niên, giờ này lãnh đạo Việt Nam vẫn không ngừng đổ lỗi tình trạng nghèo khổ, lạc hậu của Việt Nam là do chiến tranh. Những khẩu hiệu kiểu như “Quyết tâm, Quyết tử, Quyết chiến, Quyết thắng, Quán triệt mục tiêu, Chỉ đạo sâu sát, Lãnh đạo triệt để, Toàn dân thi đua, Hạ gục nhanh, Tiêu diệt gọn…” vẫn hiện diện trong các hội thảo khoa học, các cuộc họp ở các công sở, một cách sáo rỗng và phi thực tế.
Các mô hình Mặt Trận Tổ Quốc, Bộ Chính Trị, Dân Quân Tự Vệ, AK 47, lực lượng dư luận viên, Ban Tuyên Giáo Trung Ương và cơ sở, Học Viện Báo Chí tuyên truyền, tổ chức Đảng từ cấp cơ sở tới cấp Trung Ương, cơ chế ấp “chiến lược”, khái niệm sở hữu toàn dân, lập chỉ tiêu, kế hoạch… Tất cả đều là tư duy thời chiến nhưng vẫn được bưng nguyên xi vào trong đời sống của người dân trong thời hậu chiến, khiến cho đời sống của người dân trong cả nước vẫn bị bao phủ và nhận chìm trong bầu không khí chiến tranh. Việc hy sinh đi cái tự do của người dân, thay vì chỉ là tạm thời thì, đã trở thành tình trạng vĩnh viễn.
Theo quan điểm của Hayek, nếu như người ta chỉ háo hức với việc chiến tranh kết thúc, người ta thiếu những kế hoạch tái thiết thời hậu chiến được tính toán một cách chi tiết và khoa học, thì đất nước sẽ không bao giờ thực sự có khả năng bước ra khỏi được tư duy “chiến tranh”. Ông cho rằng, dĩ nhiên cần phải có thời gian để mỗi quốc gia chuyển tiếp từ “Chiến Tranh” qua “Hòa Bình”, nhưng thời gian này cần phải gắn với những mục tiêu ngắn hạn và rõ ràng và tối cần thiết, mang tính chất “bắc cầu” giữa hai giai đoạn. Nhà nước không được phép “mị dân” bằng những từ ngữ hoa mỹ, nhưng mơ hồ, trong giai đoạn này, chẳng hạn như, “dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, ai cũng có việc làm…”, vì nó có thể dẫn tới những biện pháp cực kì thiển cận. Họ cũng không nên đưa ra những kế hoạch hay chỉ tiêu to lớn mà kèm theo những đòi hỏi quyết liệt và thiếu trách nhiệm như “phải làm bằng mọi giá” của những người lí tưởng hóa. Điều này chắc chắn sẽ mang lại nhiều tác hại to lớn [ Trang 463 ].
Là một nhà kinh tế học, GS Hayek cho rằng, muốn xây dựng một xã hội thời hậu chiến, người ta phải ưu tiên vực dậy nền kinh tế, trong đó quan trọng nhất là sử dụng nguồn lực lao động một cách hợp lý. “Không nghi ngờ gì rằng vào thời điểm sau chiến tranh, sự khôn ngoan trong quản lí kinh tế còn quan trọng hơn cả thời kỳ trước đó, và số phận của nền văn minh của chúng ta rốt cuộc sẽ phụ thuộc vào việc chúng ta sẽ giải quyết những vấn đề kinh tế như thế nào” [ Trang 464 ].
Điều này là vì “Một trong những đặc điểm quan trọng của thời hậu chiến là hàng trăm ngàn người, cả đàn ông và đàn bà, do nhu cầu chiến tranh đã phải chuyển qua làm những công việc mà người ta không mong muốn. Trong thời bình khả năng sử dụng một số lượng người lớn đến như thế sẽ không còn… Việc tái đào tạo, chắc chắn sẽ được thực hiện trên quy mô to lớn, cũng không thể giải quyết được toàn bộ vấn đề..” [ Trang 464 ].
Ông giải thích, “Nếu không [ có kế hoạch phân phối nguồn lực lao động này hợp lý ], nó sẽ dẫn tới việc tiếp tục dư số lượng người lao động. Nó sẽ làm cho năng suất lao động giảm và sẽ làm gia tăng tỉ lệ những người làm việc mà lương bổng của họ được giữ nguyên chỉ nhờ các biện pháp nhân tạo [ của thời chiến ]”.
Một luận điểm khác cũng được Hayek chỉ ra ở đây, đó là TÌNH TRẠNG PHÂN PHỐI LƯƠNG THỰC, THỰC PHẨM, TÀI SẢN THEO KIỂU “BÌNH QUÂN CHỦ NGHĨA” TRONG THỜI CHIẾN, SẼ KHÔNG THỂ TIẾP TỤC ĐƯỢC THỰC HIỆN TRONG THỜI BÌNH. Ông cho điều đúng đắn nhất mà xã hội thời Hậu chiến nên làm đó là “Phải tìm cách nâng cao thu nhập của các cá nhân. Cũng như toàn xã hội, để mọi người có thể được hưởng phúc lợi xã hội tốt hơn“.
Ông cảnh báo “Có lẽ cũng không kém phần quan trọng là không được khắc phục tình trạng nghèo đói bằng các biện pháp thiển cận như tái phân phối thay vì phải nâng cao thu nhập, làm như thế là đẩy nhiều nhóm xã hội đông người thành kẻ thù của trật tự hiện hành“… [ Trang 465 ].
Ông lưu ý rằng, việc truất hữu tài sản của giai cấp trung lưu để chia đều cho những giai cấp nghèo khổ hơn, chính là chúng ta đang dùng tới các hình thức bạo lực để trấn áp Tự Do của người khác, và những ai đồng ý với điều đó, chính là họ đang giúp sức cho việc ngóc đầu dậy của chủ nghĩa toàn trị trên đất nước của họ. Cũng tương tự như thế, việc cướp của người giàu chia cho người nghèo tự nó sẽ không làm cho tài sản xã hội tăng lên mà nó còn bắt những người có khả năng hơn phải hi sinh phẩm giá và hạ thấp những chuẩn mực cuộc sống của mình, trong khi nó không hề làm tăng phẩm giá hay chuẩn mực cuộc sống của những tầng lớp thấp kém hơn.
“Chúng ta chỉ có thể xây dựng được một thế giới tử tế nếu chúng ta có thể tiếp tục cải thiện được điều kiện sống cho tất cả mọi người… Chúng ta muốn khôi phục và đạt được mức sống cao hơn thì chúng ta phải tiến hành những điều chỉnh lớn chưa từng có, và chỉ khi mỗi người chúng ta sẵn sàng tuân theo những nhu cầu tất yếu của quá trình tái điều chỉnh này thì chúng ta mới có thể vượt qua giai đoạn khó khăn như những người tự do, những người có quyền lựa chọn cách sống riêng của mình” [ Trang 465 ].
Để làm được điều đó mà không gây ra nhiều xáo trộn trong xã hội, ông đề nghị các chính phủ “Hãy tìm mọi cách để đảm bảo một mức sống tối thiểu đồng đều cho tất cả mọi người, NHƯNG ĐỒNG THỜI VỚI VIỆC ĐẢM BẢO MỘT MỨC SỐNG TỐI THIỂU NHƯ THẾ RỒI, THÌ MỌI ĐÒI HỎI VỀ ƯU TIÊN, ƯU ĐÃI CHO NHỮNG GIAI TẦNG ĐẶC BIỆT [ Những người không thể / hoặc không muốn lao động trong xã hội, thường xuyên sống bằng trợ cấp, và những nhóm lãnh đạo đã quen được hưởng những ưu đãi đặc biệt ] CŨNG PHẢI BỊ BÃI BỎ. Mọi lí do cho phép thành lập những nhóm khép kín nhằm bảo đảm những tiêu chuẩn đặc biệt cho họ cũng sẽ phải bị bãi bỏ“.
GS Hayek cho rằng, nếu những nhà lãnh đạo đất nước [ Tầng lớp đã được ưu ái nhiều trong những thời kỳ khó khăn ] không đồng ý hy sinh những lợi ích của mình như ý kiến trên, mà họ tìm những cách thức khác để biện minh, chẳng hạn như “Mặc xác kinh tế, chúng ta sẽ xây dựng một thế giới tử tế”, thì “đấy là những lời kêu gọi nghe có vẻ cao thượng nhưng trên thực tế lại là những lời nói hoàn toàn vô trách nhiệm… Điều duy nhất mà nền dân chủ hiện đại không thể chịu đựng được, nó nhất định sẽ bị tổn thương, đấy là khi nó buộc phải giữ mức sống thấp đối với dân chúng của nó ngay cả trong thời bình hoặc chứng kiến sự giẫm chân tại chỗ của nền kinh tế trong một thời gian dài” [ Trang 478 ].
Điều này, giải thích cho nhiều người trong chúng ta rằng, tại sao những quốc gia như Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Cuba, lại chưa bao giờ có khả năng chạm vào cánh cửa của nền “dân chủ”. Hayek cũng cảnh báo rằng, lãnh đạo của các quốc gia độc tài toàn trị, để giữ lại những quyền lợi và ưu tiên của mình, họ sẽ tiếp tục tự lừa phỉnh dân chúng rằng toàn dân đang hi sinh quyền lợi vật chất nhân danh những mục đích lí tưởng cao đẹp của Chủ Nghĩa Xã Hội, Chủ Nghĩa Cộng Sản, hoặc cái gì đó tương tự. Sự lừa phỉnh của tầng lớp lãnh đạo này, đến lượt nó, sẽ có thể làm nảy sinh, ngay cả ở những con người lương thiện nhất trong xã hội, những bản tính lừa lọc, dối trá, nghi kỵ, ích kỷ, giảo hoạt, háo danh, khi họ phải hàng ngày đối mặt với các thủ đoạn và đòi hỏi của bộ máy cai trị.
“Như vậy, liệu năm mươi năm tiếp xúc với chủ nghĩa tập thể có nâng cao được tiêu chuẩn đạo đức của chúng ta hay sự thay đổi sẽ đi theo chiều ngược lại?” [ Trang 471 ].
Liên quan đến việc xây dựng một xã hội “Công bằng, bình đẳng, văn minh, nhân bản“. Hayek cho rằng, “Mặc dù chúng ta thường tỏ ra tự hào là nhạy cảm hơn với các bất công xã hội, nhưng hành động của mỗi người chúng ta thì lại chưa chứng tỏ được điều đó” [ Nếu chúng ta đồng ý với nhau rằng, sẽ luôn có những tầng lớp được hưởng đặc quyền đặc lợi hơn phần lớn những người dân trong xã hội, dù họ không thể chứng minh được những đóng góp của họ là xứng đáng với những đặc quyền đặc lợi đó, thì có nghĩa là chúng ta đã phản lại tinh thần công bằng của nền dân chủ tự do ] [ Trang 471 ].
Cũng như vậy, về mặt đạo đức xã hội, Hayek khẳng định, “Các tiêu chuẩn đạo đức nhất định phải gắn bó mật thiết với các hành vi mang tính cá nhân [ Cá nhân tự quyết định mình nên trở thành người như thế nào, thông qua những hành động của mình ], cũng như chúng chỉ có hiệu lực khi cá nhân được tự do quyết định và tự nguyện hi sinh các quyền lợi cá nhân [ mà không bị một sức ép nào từ bên ngoài ] nhằm thực thi các quy tắc đạo đức. Chỉ khi chúng ta hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyền lợi của mình, và có tự do trong việc chọn lựa hi sinh các quyền lợi đó, thì quyết định của chúng ta mới có giá trị đạo đức“.
Chắc chắn rằng, chúng ta sẽ CHẲNG THỂ được coi là vị tha khi chúng ta chỉ muốn hi sinh quyền lợi của người khác [ Như cách mà các nhà lãnh đạo độc tài toàn trị hy sinh quyền lợi của dân chúng ] cho những mong ước của chúng ta, chúng ta sẽ KHÔNG XỨNG ĐÁNG được vinh danh nếu như chúng ta ép người khác vào chỗ không còn lựa chọn nào khác, ngoài hi sinh lợi ích của họ, cho những mong muốn của chúng ta, dù rằng với bất kỳ mục đích nào. Thêm vào đó, nếu những thành viên của một xã hội mà trong bất cứ hoàn cảnh, điều kiện nào, cũng cam chịu phải làm cái điều [ mà họ được tuyên truyền rằng là điều tốt ] dù phải hy sinh quyền lợi của họ, thì họ cũng chẳng có gì để chúng ta phải ca ngợi [ Vì họ đã không tự biết suy nghĩ để bảo vệ quyền lợi của chính mình ] [ Trang 472 ].
Hayek bày tỏ niềm tin tưởng mạnh mẽ vào việc “Chỉ có thể gọi một xã hội là văn minh, nhân bản, đạo đức khi từng thành viên trong xã hội đó tự ý thức được vai trò cá nhân và xã hội của mình, khi từng cá nhân trong xã hội đó nỗ lực để trở nên có đạo đức và hành xử phù hợp, mà không thể có trường hợp ngược lại” [ Tức, gọi nhà nước đó là nhà nước đạo đức trước, rồi dân chúng tự động trở nên có đạo đức. Không thể có chuyện gọi nhà nước là Xã Hội Chủ Nghĩa hay Cộng Sản, thì người dân sẽ theo đó mà có tinh thần Xã Hội Chủ Nghĩa ].
Ông lập luận:
“Tự do hành động ngay trong những hoàn cảnh thách thức những lựa chọn của chúng ta, cũng như biết tự chịu trách nhiệm khi chọn lựa cách tổ chức cuộc sống phù hợp với lương tâm của mình, chính là những điều kiện cần thiết để ý thức về đạo đức [ của mỗi cá nhân ] có thể phát triển… Mỗi cá nhân sẽ chịu trách nhiệm, không phải trước cấp trên, mà trước lương tâm của mình…. Ý thức về trách nhiệm SẼ KHÔNG đến từ việc một cá nhân vì bị cưỡng bức mà phải thực hành, mà cần phải đến từ việc cá nhân coi cái gì đó là có giá trị, và họ phải dám hy sinh những cái khác, cũng như sẵn sàng chấp nhận hậu quả của những quyết định do mình đưa ra, tất cả những điều đó chính là bản chất của đức hạnh, theo nghĩa đúng đắn nhất của từ này” [ Trang 472-473 ].
Ông cũng cho rằng, “Trong lĩnh vực hành vi cá nhân thì ảnh hưởng của chủ nghĩa tập thể chỉ mang tính phá hoại. Phong trào nào mà hứa hẹn sẽ giải thoát con người ta khỏi trách nhiệm cá nhân, chắc chắn nó sẽ trở thành phong trào phi đạo đức” [ BLM? ]. Trên thực tế dù lí tưởng ban đầu của nó có cao quý đến mức nào, và…
“Lên tiếng đòi hỏi nhà cầm quyền cải thiện tình hình HOẶC ngồi im, cam chịu phục tùng mệnh lệnh của nhà cầm quyền, miễn là những người khác xung quanh mình cũng bị buộc phải làm như thế, VÀ, tự mình sẵn sàng đứng lên làm những việc mà mình cho là đúng, ngay cả khi phải hi sinh những ước mơ riêng của mình, cũng như việc mình sẽ có thể phải hứng chịu những điều tiếng không hay LÀ HAI VIỆC HOÀN TOÀN KHÁC NHAU“. [ Một cá nhân tự do, và biết suy nghĩ thì phải phân biệt được hai điều này rõ ràng ].
Ông cho rằng, trong các xã hội, khi các nhà độc tài toàn trị lên tiếng, họ thường có xu hướng kêu gọi con người hướng vào những hành động tập thể và bỏ qua những suy tư về bản thân họ như là những con người cá nhân cụ thể. Điều này cực kỳ là tai hại, vì có nghĩa là họ cũng bỏ qua cả những sai trái của những con người cá nhân, và chỉ dành sự quan tâm cho những mục đích tập thể, cho dù cái mục đích đó nó tàn nhẫn và phi nhân tính.
“Có nhiều sự kiện chứng tỏ rằng trên thực tế càng ngày chúng ta càng dễ bỏ qua những hành động bất lương cụ thể, càng ngày càng tỏ ra bàng quan đối với những bất công riêng lẻ, trong khi đó lại chú mục vào cái hệ thống lí tưởng, trong đó nhà nước sẽ tổ chức mọi việc một cách hoàn hảo. Có thể, như đã nói bên trên, CHÍNH NIỀM SAY MÊ HÀNH ĐỘNG TẬP THỂ LÀ CON ĐƯỜNG ĐƯA CHÚNG TA CHÌM ĐẮM VÀO THÓI ÍCH KỶ TRÊN QUY MÔ TẬP THỂ” [ Trang 474 ].
Và như vậy, “Những đức tính tốt như tự lập, tự lực cánh sinh, sẵn sàng mạo hiểm, sẵn sàng bảo vệ ý kiến của mình dù trái ngược với đa số và tinh thần sẵn sàng hợp tác với người khác, là những đức tính tối quan trọng của xã hội cá nhân chủ nghĩa thì nay không còn được đánh giá cao, và ít được thực hành hơn trước. Chủ nghĩa tập thể không thể thay thế được những đức tính đó, nhưng trong khi phá hủy chúng, chủ nghĩa tập thể đã để lại một khoảng trống về mặt đạo đức, mà sau đó lại được lấp đầy bằng một yêu cầu duy nhất là các cá nhân phải phục tùng và tham gia thực hiện những điều mà tập thể [ chứ không phải cá nhân ] quyết định là tốt” [ Trang 475 ].
Nguy hiểm hơn, điều này sẽ khiến cho sự lựa chọn về khía cạnh đạo đức đạo đức của các ứng cử viên [ là những người sẽ đại diện cho ý chí của người dân ] trong các cuộc bầu cử định kì ngày một thu hẹp thêm. Các ứng cử viên sẽ không còn cần phải chứng minh những giá trị đạo đức của cá nhân họ, cũng không cần phải chứng minh lòng chân thành cũng như lương tâm, năng lực của mình, mà chỉ cần đưa ra những lời hứa hẹn sáo rỗng về tinh thần và mục tiêu của tập thể, khiến cho việc lựa chọn ra người đại diện chính quyền này có thể thất bại hoàn toàn, hoặc đem lại những hậu quả vô cùng tai hại.
“Vì các QUY TẮC HÀNH XỬ CỦA CÁ NHÂN CHÍNH LÀ CỘI NGUỒN ĐỨC HẠNH CỦA CÁC HÀNH ĐỘNG CHÍNH TRỊ TẬP THỂ, cho nên quả là chuyện lạ nếu tiêu chuẩn đạo đức cá nhân giảm đi LẠI CÓ THỂ ĐI kèm với sự gia tăng các tiêu chuẩn của hành động xã hội”. [ Chỉ có nhiều cá nhân tốt tạo ra xã hội tốt, chứ khó có thể ngược lại ] [ Trang 476 ].
GS Hayek cũng cho rằng, ở những xã hội khác nhau, vào những thời điểm khác nhau, con người sẽ sắp xếp lại các thang giá trị của mình, trong đó, họ sẽ có thể coi một số giá trị là cao hơn, một số thấp hơn so với các thế hệ đi trước.
Tuy nhiên, ông tin rằng, có những giá trị sẽ giống nhau ở nhiều xã hội, và nhiều xã hội sẽ chia sẻ những giá trị này. Một trong số đó là những điều kiện cơ bản, ở mức ít nhất là đủ cho nhu cầu tối thiểu của con người [ Ăn, ở, mặc, hít thở không khí sạch ].
Ông lập luận:
“Nhưng xin hãy tự hỏi: những mục tiêu nào đang bị coi là thấp, và giá trị nào có thể phải hi sinh… nếu chúng xung đột với các giá trị khác? Trong các họa phẩm vẽ về tương lai mà các văn sĩ và các diễn giả đưa ra cho chúng ta, thì những giá trị nào có vị trí mờ nhạt hơn so với những bức tranh từng hiện diện trong những giấc mơ và niềm hi vọng của cha ông chúng ta?
Chắc chắn là tiện nghi vật chất, nâng cao mức sống và bảo đảm một vị trí xã hội nhất định KHÔNG THỂ CHIẾM CÁC VỊ TRÍ THẤP TRÊN THANG GIÁ TRỊ CỦA CHÚNG TA” [ Nếu chúng ta là những con người bình thường, bằng xương bằng thịt, và có lý trí ].
LIỆU CÓ VĂN SĨ HAY DIỄN GIẢ NÀO DÁM ĐỀ NGHỊ QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN NHÂN DANH NHỮNG LÝ TƯỞNG CAO CẢ MÀ CHẤP NHẬN HY SINH CÁC TRIỂN VỌNG VẬT CHẤT CỦA HỌ HAY KHÔNG?
Vậy mà ngay vào lúc này, sau 80 năm Hayek đã cảnh báo điều này, thì ở các quốc gia độc tài toàn trị, nơi các lãnh đạo độc tài toàn trị thường xuyên kêu gọi những người dân khốn khổ của mình hy sinh những khát vọng cá nhân cho những mục tiêu tập thể lý tưởng đến độ hoang tưởng, nơi người ta thường xuyên kêu gọi những con người còn đang trong những hoàn cảnh sống thấp kém, phải biết quên đi những đòi hỏi vật chất, những đòi hỏi cơ bản của con người, để toàn tâm hướng tới những giá trị đạo đức cao cả, những thứ mà chỉ có các bậc triết nhân, vĩ nhân, những người đã đạt đến những hoàn cảnh sống hết sức đầy đủ rồi mới dám mơ tưởng đến. [ Điển hình là vào ngày 11/08/2021 Tổng Bí Thư của Đảng Cộng Sản Việt Nam mới phát biểu: Tiền bạc lắm làm gì, danh dự mới là điều thiêng liêng, cao quý nhất ].
Thêm vào đó, Hayek cũng đặt câu hỏi về những giá trị quan trọng mà người dân không được phép để nó bị xâm phạm theo bất cứ cách thức nào, trong bất cứ kế hoạch nào trong tương lai, trong đó bao gồm các: quyền tự do cá nhân, quyền tự do đi lại, quyền tự do ngôn luận nữa, và quyền lên tiếng đòi hỏi chính phủ phải cung cấp cho mình những thứ mà mình cần, sau khi mình đã có những đóng góp hợp lý [ Trang 477 ].
[ Ở những xứ sở độc tài toàn trị ], việc phân biệt đối xử với những thành viên và những người không phải thành viên của các “nhóm lợi ích” [ thường là bộ máy lãnh đạo và bè lũ tay sai ], đấy là chưa nói tới những sắc dân thuộc các thành phần khác, càng ngày càng được coi là vấn đề đương nhiên… Những bất công do chính phủ gây ra cho các cá nhân, khi nó chỉ hành động nhằm bảo vệ quyền lợi của một nhóm nào đó, đã bị người ta lờ đi với thái độ bàng quan có thể sánh ngang với sự tàn nhẫn… Những vụ vi phạm trắng trợn quyền cơ bản của con người, thí dụ như ép buộc di dân hàng loạt [ Đi kinh tế mới, dồn người vào các trại cải tạo ] được ngay cả những người tự nhận là theo trường phái tự do ủng hộ.
TẤT CẢ NHỮNG ĐIỀU NÀY, CHỨNG TỎ RẰNG Ý THỨC ĐẠO ĐỨC CỦA CHÚNG TA ĐÃ CÙN MÒN ĐI, CHỨ KHÔNG PHẢI LÀ SẮC BÉN THÊM [ Theo quy luật về sự tiến hóa của con người ] [ Trang 477 ].
Bình luận về sự thoái hóa đạo đức của con người nói chung trong các xã hội độc tài toàn trị nói chung, Hayek cho rằng:
“Có một khía cạnh trong sự thay đổi của các giá trị đạo đức, mà do sự lấn tới của chủ nghĩa tập thể đã gây ra, rất đáng được suy ngẫm vào lúc này. Đó là những đức tính càng ngày càng ít được coi trọng, và vì vậy càng ngày càng trở thành hiếm hoi hơn, nhưng trước đây các đức tính này từng là niềm tự hào của người Anglo-Saxon [ Người Anh hiện tại ] và họ cũng được mọi người thừa nhận là xuất sắc về mặt đó” [ Trang 478 ].
“Những đức tính mà các dân tộc này sở hữu là TÍNH ĐỘC LẬP VÀ TỰ LỰC CÁNH SINH, SÁNG KIẾN CÁ NHÂN VÀ TRÁCH NHIỆM CỘNG ĐỒNG, BIẾT TỔ CHỨC VÀ DỰA VÀO CÁC HOẠT ĐỒNG TÌNH NGUYỆN, TRONG KHI, KHÔNG CAN THIỆP VÀO CÔNG VIỆC CỦA NGƯỜI KHÁC, CŨNG NHƯ KHOAN DUNG VỚI NHỮNG NGƯỜI CÓ SUY NGHĨ KHÁC MÌNH, KỂ CẢ VỚI NHỮNG NGƯỜI CÓ KHUYNH HƯỚNG BỊ COI LÀ LẬP DỊ, TÔN TRỌNG TẬP QUÁN TRUYỀN THỐNG, CÓ THÁI ĐỘ NGHI NGỜ LÀNH MẠNH ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN VÀ NHÀ CHỨC TRÁCH.
Gần như tất cả các truyền thống và thiết chế, trong đó tinh thần đạo đức dân chủ được thể hiện một cách đặc trưng nhất và đến lượt nó, lại hun đúc nên tinh thần dân tộc và toàn bộ bầu không khí đạo đức của nước Anh và nước Mĩ này, lại đang bị chủ nghĩa tập thể và các xu hướng tập quyền gắn liền với nó phá hủy” [ Trang 478 ]. Hayek xem việc mà người [ Anh ] coi thường những đóng góp có giá trị nhất của họ cho nhân loại là “một trong những cảnh tượng đáng buồn nhất trong thời đại chúng ta“. Ông cho rằng khi người ta xem thường những giá trị tượng trưng cho Con người cá nhân Độc Lập, Tự Do và nền Dân Chủ như vậy, thì nền dân chủ sớm muộn gì cũng bị lung lay, tiến đến chỗ có thể bị thay thế bằng nền cai trị độc tài toàn trị. “Những người Xã Hội Chủ Nghĩa này, dĩ nhiên là không bao giờ chịu công nhận rằng, các giá trị đạo đức mà đa số họ vẫn lấy làm tự hào [ Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc ], lại là sản phẩm của những thiết chế mà họ đã và đang kêu gọi phá hủy” [ Trang 479 ].
Đáng kinh ngạc hơn, khi Hayek viết cuốn sách này, chiến tranh Thế Giới Thứ II vẫn chưa kết thúc, nhưng Hayek đã có suy nghĩ tới việc chính các nước đồng minh ở Phương Tây sẽ phải gánh vác vai trò tái thiết lại Châu Âu, sau thất bại của phe phát xít. Hayek đã nói rằng, “Nếu sau này chúng ta [ Anh và các nước đồng minh ], phải giúp nước Đức và Ý tái thiết lại đất nước sau thế chiến, [ ông tin rằng ] “những quốc gia này sẽ hiểu sâu sắc rằng, TẤT CẢ CÁC Ý ĐỊNH TỐT ĐẸP LẪN TÍNH HIỆU QUẢ CỦA HỆ THỐNG ĐỀU SẼ CHẲNG THỂ BẢO VỆ ĐƯỢC SỰ ĐÚNG ĐẮN CỦA CHÚNG, TRONG MỘT HỆ THỐNG MÀ KHÔNG CÓ CẢ TỰ DO LẪN TRÁCH NHIỆM CÁ NHÂN. Người Đức và người Ý, là những người đã thấm nhuần bài học về sự độc tài của chính phủ tiền nhiệm của họ, phải làm trước hết là TỰ BẢO VỆ HỌ BẰNG CÁCH CHỐNG LẠI MÔ HÌNH NHÀ NƯỚC TẬP TRUNG TOÀN TRỊ” [ Trang 483 ].
Sau cùng thì, những nhận định sau của GS Hayek cũng có thể rất đáng cân nhắc cho người dân ở những nước đang nằm dưới sự cai trị của bộ máy độc tài toàn trị:
“Người dân không cần những kế hoạch đại quy mô nhằm tổ chức lại toàn bộ xã hội, cái họ cần là cơ hội xây dựng lại thế giới nhỏ bé của mình một cách thanh bình và trong tự do. Họ hoàn toàn có thể hi vọng vào sự trợ giúp của những kiều dân của các nước từng là đối thủ của họ, KHÔNG PHẢI vì họ tin rằng bị người Anh hay người Mĩ chỉ đạo thì tốt hơn là bị người Đức [ hay người Liên Xô, Trung Hoa ] chỉ đạo, MÀ VÌ HỌ TIN RẰNG, trong cái thế giới mà, nơi các lí tưởng dân chủ đã chiến thắng, người dân sẽ ít cam chịu sự chỉ đạo từ bên trên hơn, người dân sẽ được sống trong hòa bình và theo đuổi những mối quan tâm riêng của mình” [ Trang 483 ].
Bên cạnh đó, Hayyek cũng đưa ra những lời gợi ý, mà có thể ngay vào thời điểm này, có thể là vô cùng cần thiết cho việc xây dựng đất nước trong tương lai, của người dân ở các quốc gia độc tài toàn trị:
“Muốn thắng trong cuộc đấu tranh tư tưởng và lôi kéo được những phần tử tử tế trong các quốc gia thù địch, thì trước hết chúng ta phải giành lại lòng tin vào những giá trị truyền thống mà chúng ta từng bảo vệ trong quá khứ [ Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc, Dân Chủ, Yêu Nước Thương Nòi, Can Đảm, Hy Sinh, Có Trách Nhiệm ], và phải có đủ dũng khí đạo đức để bảo vệ những lí tưởng mà đối thủ của chúng ta [ Là những kẻ muốn duy trì chế độ độc tài, toàn trị ] đang tấn công chúng ta….
Chúng ta sẽ giành được niềm tin và sự ủng hộ KHÔNG PHẢI bằng những lời xin lỗi đáng xấu hổ, KHÔNG PHẢI bằng những lời bảo đảm rằng chúng ta sẽ cải tổ một cách nhanh chóng, KHÔNG PHẢI bằng những lời giải thích rằng chúng ta đang đi tìm sự thỏa hiệp giữa các giá trị tự do truyền thống và những tư tưởng toàn trị mới, mà chính là niềm tin không hề lay chuyển của chúng ta vào những truyền thống đã làm cho nước Anh và nước Mĩ [ và những quốc gia dân chủ tự do khác ], trở thành quốc gia của những con người tự do, ngay thẳng, khoan dung và độc lập. Đó mới là điều đáng để chúng ta quan tâm [ Trang 484 ].
Phần kết,
Tôi xin tạm dừng phần tóm tắt tác phẩm “Đường Về Nô Lệ” của tác giả Hayek ở đây. Trong tác phẩm vĩ đại này, GS Hayek cũng còn dành ra chương cuối cùng để tiên đoán về trật tự thế giới sau Thế Chiến Thứ Hai, về xu hướng quốc tế hóa và khu vực hóa, về sự trỗi dậy của những hình thức chủ nghĩa độc tài toàn trị mới, trong các khu vực, khi những quốc gia có nhiều thế mạnh hơn cố gắng áp đặt những chuẩn mực của mình lên những quốc gia nhỏ bé hơn, và điều này sẽ dẫn tới nguy cơ tan vỡ của chủ nghĩa khu vực [ Như chúng ta đã được chứng kiến hiện tượng Brexit trong những năm qua ].
Tôi hiểu một cách sâu sắc rằng bản tóm tắt này còn rất nhiều thiếu sót, và những phân tích cũng còn rất thiển cận và vụng về, không thể chuyển tải được toàn bộ ý nghĩa to lớn của tác phẩm.
Tuy nhiên, tôi tin rằng bất cứ một người nào dù sống ở đâu trên trái đất này, tự nhận mình là người Việt Nam, đều có chung mong đợi một ngày đất nước phát triển, nền dân chủ được thực thi rộng rãi trong đời sống xã hội ở Việt Nam. Khi đó, những người Việt Nam có thể ngẩng cao đầu bước đi với niềm tự hào là công dân của một quốc gia tự do, có thể tự tin cầm một cuốn hộ chiếu trên tay mà không cảm thấy hổ nhục, có thể tự giới thiệu mình là người Việt Nam mà không cảm thấy ngại ngùng trước con mắt của bạn bè thế giới.
[ Xếp hạng của Tổ Chức Cư Trú và Công Dân Toàn Cầu Henley & Partners, trong suốt nhiều năm, hộ chiếu Việt Nam chỉ được xếp dưới hoặc cùng lắm là ngang bằng với hộ chiếu Lào và Campuchia ( Báo Thanh niên; https://thanhnien.vn/tai-chinh-kinh-doanh/ho-chieu-viet-nam-kem-quyen-luc-hon-ca-lao-campuchia-966451.html ) ].
Tính đến Tháng Bảy, 2021, hộ chiếu Việt Nam xếp hạng thứ 94/199 hộ chiếu, đồng hạng với Nigeria, Mali và Cambodia.
Chúng ta là một quốc gia đang sống trong hòa bình, chúng ta có “Rừng vàng biển bạc, có lịch sử 4,000 năm, có gần 100 triệu dân trong thời điểm hiện tại, dân chúng ta thông minh, chăm chỉ, yêu nước, thương nòi, nước chúng ta có sự lãnh đạo thiên tài, sáng suốt của Đảng cộng sản quang vinh muôn năm, chúng ta làm được những điều mà thế giới chưa bao giờ làm được…”. Vậy mà vì cớ gì mà người Việt Nam cầm cái hộ chiếu của nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trên tay, lại không thể mở mày mở mặt ra được với bất cứ quốc gia nào trên thế giới này? Có điều gì đó là nghịch lý đến nỗi nó không đáng được tha thứ ở đây không?
Chắc chắn là không phải riêng tôi, mà còn rất nhiều người Việt Nam khác, cũng có niềm tin vững vàng rằng Việt Nam có những tiềm năng con người to lớn, không thua kém bất cứ một quốc gia nào ở trong khu vực Đông Nam Á, và có thể là ngoài khu vực này nữa. Trong suốt nhiều năm qua, những tiềm năng này đã tỏa sáng rực rỡ khi chúng được mang đi vun trồng ở những mảnh đất của tự do.
Chắc hẳn tất cả các độc giả có đọc bài này của tôi, cũng đồng ý rằng, từng người người Việt Nam một, cho dù xuất thân trong những điều kiện khác biệt to lớn, đều xứng đáng được bước đi trên Đại Lộ Tự Do, thay vì Đại Lộ Nô Lệ, mà những sai lầm nối tiếp của nhiều con người tham vọng và mơ mộng trong lịch sử một trăm năm, đã dẫn dắt những dân tộc khổ đau, trong đó có Việt Nam bước vào.
Và hẳn chúng ta cũng có thể chia sẻ với nhau rằng: Nếu như càng ngày càng có nhiều những người Việt Nam trẻ tuổi, và đang sở hữu nhiều điều kiện tốt hơn hẳn những thế hệ cha anh, có thể dành nhiều thời gian hơn để nghĩ về những gì đã, và đang xảy ra trên mảnh đất thân yêu này, cũng như nghĩ về những ước mơ mà chúng ta muốn hiện thực hóa trong những thế hệ tiếp theo của chúng ta, chúng ta đều có thể chung tay, làm những điều dù là nhỏ bé nhất, trong hoàn cảnh và phù hợp với điều kiện, sức lực của mỗi người, để góp phần cải tạo lại mảnh đất đau thương này.
Mỗi ngày, chúng ta có thể gieo xuống mảnh đất đó những hạt mầm khỏe mạnh. Chúng ta sẽ nuôi dưỡng chúng, chăm sóc chúng, làm bất cứ điều gì có thể để bảo vệ chúng, và chờ đến một ngày, chúng ta lại có thể nhìn thấy chúng trưởng thành rực rỡ, đơm hoa kết trái, không phải trên Đại Lộ của Nô Lệ, mà sẽ là trên một đại lộ mới có tên Đại Lộ TỰ DO.
Tác Giả: Từ Liên.
4 thoughts on “Phần 5/5: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Phần cuối. Tác Giả: Từ Liên.”