Giành chính quyền, Giữ chính quyền và Trao Quyền. Tác Giả: Từ Liên.

Trao quyền có nghĩa là có nhiều người có thể chất vấn: Vậy đất nước này là của nhân dân hay là của Đảng độc tài? “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” thật sự có ý nghĩa như thế nào?

Trong những năm tháng học tập ở Việt Nam, đặc biệt là từ bậc trung học phổ thông, tới bậc cao đẳng, đại học, một trong những câu mà những người trẻ phải nghe nhiều nhất, trong các môn khoa học xã hội, các môn chính trị, là “giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền càng khó khăn phức tạp hơn nhiều”, được cho là của Lenin nói sau khi Cách Mạng Tháng Mười thành công ở Liên Xô.

http://tapchiqptd.vn/vi/phong-chong-dbhb-tu-dien-bien-tu-chuyen-hoa/suc-song-hoc-thuyet-cua-vi-lenin-ve-bao-ve-to-quoc/16981.html.

Nếu sau khi học xong, đi làm trong các cơ quan hành chính, các công ty nhà nước, người ta sẽ tiếp tục được nghe cụm từ này được trích dẫn lại mỗi năm trong các cuộc hội họp, báo cáo thường niên, mặc kệ vấn đề mà cuộc hội họp bàn tới có phải là vấn đề chính trị không, hay chỉ đơn thuần là những vấn đề kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học, kỹ thuật…

Ngược lại, một trong những cụm từ mà những du học sinh ngành khoa học xã hội được nghe nhiều nhất, nếu họ học tập ở những nền giáo dục phát triển, là khái niệm “Trao Quyền“, “Empower” và “Empowerment”.

Từ điển Cambridge định nghĩa: “Trao Quyền” là “Trao cho ai đó Quyền Hạn Chính Thức hoặc Quyền Tự Do làm điều gì đó”.

Từ điển Wiki giải thích : “Trao Quyền” là Trao mức độ tự chủ và quyền tự quyết cho những con người và các cộng đồng. Điều này cho phép họ đại diện cho lợi ích của mình một cách có trách nhiệm và tự đưa ra quyết định, hành động theo thẩm quyền của mình. Đó là quá trình giúp họ trở nên mạnh mẽ và tự tin hơn, đặc biệt là trong việc tự hoạch định cuộc sống của mình và đòi hỏi những quyền lợi của mình. “Trao Quyền”, cũng được hiểu như một hành động bao gồm cả quá trình tự trao quyền [ của những người lãnh đạo đang nắm quyền ] và đưa ra những sự hỗ trợ chuyên môn khác đối với mọi người, giúp họ vượt qua cảm giác bất lực và cảm giác mình vẫn chưa đủ sức gây ảnh hưởng [ đến những vấn đề rộng lớn hơn ], đồng thời giúp mọi người nhận ra tiềm lực của bản thân, và biết cách sử dụng các nguồn lực của họ…

https://en.wikipedia.org/wiki/Empowerment

Một bản hướng dẫn khác của Anh Quốc đối với một cộng đồng địa phương, viết rằng:

…Để thực sự cải thiện chất lượng cuộc sống của mọi người, chúng ta cần làm việc theo những cách thức mang ý nghĩa là mọi người và gia đình của họ được trao quyền.

Đây là ý nghĩa của việc trao quyền đối với chúng tôi.

CHÚNG TA MUỐN ĐỀ CẬP TỚI ĐIỀU GÌ KHI CHÚNG TA NÓI “TRAO QUYỀN”?

  • Trao quyền có nghĩa là mọi người có quyền lực và kiểm soát cuộc sống của chính họ. Mọi người sẽ nhận được sự hỗ trợ mà họ cần, đồng thời phù hợp với họ.
  • Trao quyền có nghĩa là mọi người đều là những công dân bình đẳng. Họ được tôn trọng và cảm thấy tự tin trong cộng đồng của họ.
  • Bạn không thể trao quyền cho người khác hoặc khiến ai đó được trao quyền. Trao quyền là về cách thức chúng ta sẽ làm việc và hỗ trợ ai đó, có nghĩa là giúp cho họ có thể hoạch định và chịu trách nhiệm về cuộc sống của chính mình.
  • Một số người có thể cần nhiều hỗ trợ hơn những người khác – nhưng điều đó không có nghĩa là tất cả mọi người đều không thể được trao quyền!
  • Các quyết định thay mặt cho những người thiếu năng lực phải được đưa ra vì lợi ích tốt nhất của người đó và phải liên quan đến người đó càng nhiều càng tốt và những người biết họ thực sự rõ ràng.
  • Khi mọi người được trao quyền, thì quyền lực sẽ thuộc về con người chứ không phải nằm trong tay các chuyên gia hoặc những người thực hiện các dịch vụ.
  • Nếu chúng ta làm việc với mọi người theo cách họ được trao quyền, nhiều người sẽ có cuộc sống tốt hơn, và điều này sẽ ngăn một số người phải kết thúc cuộc sống của mình ở bệnh viện hoặc những nơi ở cách xa nhà một quãng đường dài.

LÀM THẾ NÀO CHÚNG TA CÓ THỂ BIẾT ĐƯỢC RẰNG MỌI NGƯỜI ĐÃ ĐƯỢC TRAO QUYỀN HAY CHƯA?

Việc trao quyền sẽ được nhận ra như thế nào?

Đây là những “thước đo” trao quyền của chúng tôi:

Quan sát một người: Nếu rõ ràng là người đó có thực quyền [ hay đã được trao quyền ] – họ sẽ tự đặt ra mục tiêu và tự quyết định những vấn đề của họ.

  • Nếu mọi người cần người khác đưa ra quyết định cho họ thì điều đó sẽ được thực hiện vì lợi ích tốt nhất của người cần được giúp đỡ [ Người già, trẻ nhỏ, người dễ bị tổn thương, người khuyết tật, người yếm thế… ].
  • Mọi người sẽ có tiếng nói và được đối xử như những công dân bình đẳng. Điều này có nghĩa là họ sẽ có cơ hội như mọi người để có thể sống tốt trong cộng đồng.
  • Trải nghiệm và cảm xúc của mọi người sẽ được đánh giá cao, họ sẽ được lắng nghe và tôn trọng.
  • Mọi người sẽ an toàn và sẽ cảm thấy an toàn trong cộng đồng và xã hội.
  • Mọi người sẽ hiểu biết về các quyền của họ và họ có thể thực hiện các quyền đó.
  • Mọi người sẽ có thông tin và lời khuyên họ cần để họ có thể đưa ra quyết định của riêng mình.
  • Sẽ có những “cuộc vận động” vì những điều tốt cho mọi người.
  • Vận động chính sách và trao quyền đi đôi với nhau vì các cuộc vận động chính là việc lên tiếng và khiến quan điểm của mọi người được lắng nghe.
  • Mọi người sẽ có quyền tự do và sự hỗ trợ cần thiết để làm những việc quan trọng đối với cuộc sống của chính họ.

Có một sự khác biệt rất lớn trong những cụm từ được nhấn mạnh chữ “quyền” kể trên.

Ở bề ngoài, nó cho thấy một điều hiển nhiên:

Ở các quốc gia độc tài toàn trị, chỉ có khái niệm giành quyền, và giữ quyền, bất kể thứ quyền lực đó có đem lại lợi ích cho nhiều người trong xã hội hay không? Quyền lực đó có thực thi đúng nhiệm vụ của mình không [ Đúng nhiệm vụ có nghĩa là: Quyền lực chỉ là phương tiện để phục vụ cho mục đích cao nhất của việc xây dựng đất nước; Không đúng nhiệm vụ: Quyền lực trở thành mục đích cao nhất của những người lãnh đạo, chứ không phải là phương tiện nữa ].

Ở những tầng sâu hơn nữa của việc giành quyền và giữ quyền, hệ quả của nó đối với xã hội là điều đã có thể được nhận thấy trong nhiều năm qua:

Quyền lực trở thành đặc quyền của một tầng lớp quan chức cộng sản.

Quyền lực mang lại cho họ nhiều lợi ích to lớn, và rất ít trách nhiệm.

Với họ, giành quyền và giữ quyền là những mục tiêu quan trọng nhất mà họ không thể từ bỏ, nên quyền lực sẽ chỉ được truyền lại cho các thành viên trong gia đình của một nhóm lợi ích, theo kiểu “cha truyền cho nối”, mà không được mở rộng ra cho những người bên ngoài.

Dần dần, tất cả đám quan chức và con cháu của đám người này dựa dẫm hẳn vào những đặc quyền đặc lợi mà họ đã giành được, thiếu những đặc quyền đặc lợi này, chúng sẽ không thể sinh tồn, do đó mà bằng mọi giá, kể cả dùng các biện pháp tẩy não, nhồi sọ, vu khống, lừa gạt, khủng bố, đàn áp, thanh trừng, giết người diệt khẩu, tàn sát hàng loạt… chúng cũng sẵn lòng làm, nếu quyền lợi của chúng bị đe dọa. Quyền lực trở thành khái niệm xơ cứng, không bao hàm sự sống trong nó, chỉ còn chứa đựng những tham vọng của một tầng lớp ích kỷ, hèn nhát, tàn nhẫn.

Cuối cùng, để giành chính quyền và giữ chính quyền cho riêng đám quan chức Đảng nhà chúng, thì “Trao Quyền” hoặc những mầm mống của “Trao Quyền” sẽ phải bị loại trừ tuyệt đối, bị diệt từ “trứng nước”.

Trao quyền có nghĩa là sẽ có những tiếng nói độc lập, phản biện với những chính sách của nhà cầm quyền mà có liên quan tới đời sống của công dân. Chẳng hạn như việc tôi có phải chích vaccine hay không, chẳng hạn như tôi có quyền chọn lựa loại vaccine mà tôi chích, chẳng hạn như tôi có phải nhất thiết làm xét nghiệm không khi tôi không ra khỏi nhà trong nhiều tháng mà vẫn sống khỏe. Thẩm quyền nào cho ai đó được phép xông vào nhà cưỡng chế và bắt người đi, trong khi người ta không làm việc gì phạm pháp?

Trao quyền có nghĩa là sẽ có nhiều người ý thức hơn về thân phận “nô lệ” của mình, có nhiều người sẽ nhận ra tiềm năng của mình, sẽ muốn tự mình xây dựng cuộc đời của mình và đưa ra những quyết định cần thiết, phù hợp nhất cho bản thân. Chẳng hạn như tôi là bác sĩ thì tôi được quyền đưa ra những lời khuyên phù hợp nhất cho bệnh nhân của mình và cho cộng đồng mà tôi đang chịu trách nhiệm về những vấn đề sức khỏe của họ, chứ không phải để một ông quan Đảng nào đó chỉ biết triết học Maxist và lý luận Đảng nhảy lên đóng vai trò chỉ huy.

Trao quyền có nghĩa là một người có thể giúp nhiều người để tạo ra tiếng nói có trọng lượng trong việc quyết định những vấn đề liên quan đến sinh mệnh và tương lai của họ. Chẳng hạn như việc con cháu chúng tôi muốn có nền giáo dục và an sinh xã hội như thế nào?

Trao quyền có nghĩa là có nhiều người có thể chất vấn: Vậy đất nước này là của nhân dân hay là của Đảng độc tài? “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” thật sự có ý nghĩa như thế nào? Quyền làm chủ của người dân ở đâu, khi tất cả mọi quyết sách liên quan đến số phận cụ thể của gần một trăm triệu người dân thì buộc phải thông qua cái cơ quan khủng bố là Bộ Chính Trị, Quốc Hội với gần 500 con bù nhìn “được người dân bầu lên theo cơ chế Đảng cử dân bầu” không đóng vai trò gì trong các quyết sách này, và cũng không thấy tiếng nói của người làm chủ ở bất kỳ đâu trong những quyết sách nọ.

Trao quyền” có nghĩa là sẽ có nhiều người dân đòi hỏi quyền được tôn trọng, được giữ gìn nhân phẩm, quyền đòi hỏi những nền giáo dục tự do, nhân bản và tiến bộ. Dân đóng thuế là để có được những quyền lợi đó, dân hiển nhiên có quyền đòi hỏi như vậy, chứ không phải là Đảng được quyền rót xuống cho dân những gì Đảng muốn, người của Đảng không được phép lộng quyền, sỉ nhục dân vì hiển nhiên đám người này nhận lương từ tiền thuế của dân.

Thêm nữa, “Trao Quyền” có nghĩa là việc phải chia sẻ những quyền lợi về vật chất, tinh thần, quyền làm người tự do, được lên tiếng nói của riêng mình, quyền được tự do ứng cử vào những vị trí quyền lực ở các cấp trong xã hội, quyền đòi được biết rõ ràng tiền thuế của mình đi về đâu, tiền bảo hiểm thất nghiệp đang được sử dụng như thế nào, quyền đòi những hỗ trợ an sinh xã hội tốt hơn, quyền hạ bệ những tượng đài ngàn tỉ trống rỗng vô hồn, quyền minh bạch quy trình sản xuất, giá cả, các con đường xuất – nhập khẩu những loại hàng hóa liên quan tới sức khỏe và sinh mệnh của người dân. Đảng không có tiền, nhà nước cũng không có tiền, tiền của Đảng đang xài là tiền thuế của dân, là tiền bán tài nguyên khoáng sản đến cạn kiệt của đất nước, là tiền đảng đi vay mượn của nước ngoài mà những thế hệ con dân trong tương lai phải trả nợ, là tiền Đảng móc túi của người dân thông qua việc buôn bán bất hợp pháp, nâng khống giá hàng chục hàng trăm lần những sản phẩm thiết yếu…

Cuối cùng, cũng hiển nhiên không kém… hệ thống cai trị độc tài toàn trị ở Việt Nam đã đổ máu để giành lấy chính quyền, đã dùng bạo lực để giữ chính quyền, đã trở thành kẻ thù của hầu hết người dân trên đất nước này, dù là công khai hay kín đáo, chúng biết chúng bị ghét bỏ, bị khinh thường, bị phỉ nhổ…. Có nghĩa là chúng cũng phải trả một cái giá nhất định để có được thứ quyền lực đó…

Vậy những người dân còn có lương tri, phẩm giá, và nhận thức, để lật ngược lại cái hệ thống giành quyền, giữ quyền, để có được một hệ thống có thể “Trao Quyền” cho chính mình, và những thế hệ tương lai của mình, lẽ tất nhiên… cũng sẽ có một cái giá tương xứng phải trả ở đây…

Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền không phải là những khái niệm có sẵn từ khi khai thiên lập địa, không phải là những điều tự nhiên từ trên trời rơi xuống, nhiều thế hệ của các quốc gia phát triển đã phải đổ máu và đánh đổi cả sinh mệnh, tài sản, thời gian, trí tuệ, hy sinh những gì mình yêu quý nhất để có được…

Sòng phẳng mà nói, những thứ càng có giá trị, càng đắt đỏ, càng đòi hy sinh lớn lao… Những thứ miễn phí, chỉ có rất ít là thực sự có giá trị… Những thứ mà người ta không cần phải mất công cũng có được… lại càng không có ý nghĩa, không đáng được trân trọng, không đáng được bảo vệ…

Những thứ đáng giá bằng mạng sống của con người… theo lẽ công bằng thì, phải đặt mạng sống của con người ra để mà đánh đổi…

Vậy nên… Chẳng có con đường nào khác để có được những thứ quý giá, mà lại không đòi hỏi sự sẵn sàng dấn thân và hy sinh… Những cách thức khác, nếu có, hẳn sẽ chứa đựng nhiều ảo tưởng hơn là hiện thực.

Thông thường, sẽ luôn có nhiều người hơn thích nghe những lời hứa hẹn to lớn, thích lựa chọn con đường dễ dàng “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, “Hãy để chúng tôi quản lý bạn và bạn không bao giờ phải lo thiếu ăn, thiếu mặc…”… Đó là những gì chủ nghĩa cộng sản đã hứa khi chiêu mộ người dân đứng vào hàng ngũ của họ…

Nếu người dân được nói là: Hãy lao động cật lực và thật có trách nhiệm đi, hãy chấp nhận thất bại lẫn thành công, rồi bạn sẽ được hưởng mọi thứ bạn làm ra, bạn phải trở thành người chủ thực sự của cuộc đời bạn, bạn phải thực sự đóng vai chính trong cuộc đời của bạn, bạn phải có trách nhiệm với những thế hệ tương lai của bạn… Nhiều người sẽ thấy nó thật nặng nề, thiếu sức hấp dẫn…

Nhưng, điều này không phải vì họ không có khả năng, mà vì họ chưa được chuẩn bị đủ, chưa có được hỗ trợ cần thiết để tự tin vào khả năng của chính bản thân mình.

Trao quyền… đòi hỏi rất nhiều dũng cảm, hy sinh… của cả người trao lẫn người nhận… Nó sẽ rất khó thực hiện được trong một thời gian ngắn, càng khó được thực hiện từ cấp trung ương tới cấp địa phương và cá nhân… Nhiều hướng dẫn ở cấp độ cộng đồng của các quốc gia phát triển, đã gợi ý cho chúng ta rằng, trao quyền nên được dạy dỗ cho trẻ nhỏ và nên được thực hành thường xuyên từ cấp độ các gia đình, rồi đến cấp cộng đồng… Những trẻ em được trao quyền sẽ trở thành người đấu tranh để được trao quyền mạnh mẽ nhất trong tương lai.

Mặt khác, “Trao Quyền” cho những thế hệ trẻ ngày hôm nay, cũng có nghĩa là sẽ có những thế hệ khác trong tương lai tiếp tục được trao quyền, sẽ có những sáng tạo, những đổi mới, những thành tựu mà những thế hệ ngày hôm nay sẽ không bao giờ có thể nhìn thấy hết được, vì sức sáng tạo của con người là hết sức phong phú, của cả một dân tộc lại càng dồi dào và không giới hạn…

Giành quyền, giữ quyền, hay trao quyền… Tất cả phụ thuộc vào suy nghĩ, vào khả năng hy sinh và dấn thân của mỗi người…

Chỉ chắc chắn một điều, sẽ không có điều ước nhiệm màu nào dành cho việc Trao Quyền. Luôn có một cái giá cần phải trả cho những điều đáng giá…

Tác Giả: Từ Liên.

Đằng sau câu chuyện Xét Nghiệm và Vaccine ở Việt Nam. Tác Giả: Từ Liên.

Người dân hãy tự mình trang bị lấy kiến thức, nhận thức để tự cứu mình và con cháu mình nếu không muốn tiếp tục trở thành những nô lệ, và những vật thí nghiệm vô giá trị trong tay của Đảng.

Trong rất nhiều những câu chuyện từ đầu mùa dịch bệnh ở Việt Nam [ từ khoảng giữa năm 2020 ] tới thời điểm hiện nay, thì câu chuyện Xét Nghiệm và câu chuyện Vaccine là hai trong những câu chuyện có nhiều tình tiết bất nhất, ly kỳ nhất.

Những câu chuyện này không có một cốt truyện rõ ràng, không có một tuyến nhân vật nào đóng vai trò chính, chính xác phải nói rằng, tất cả các nhân vật lẽ ra phải đóng nhân vật chính [ Các chuyên gia, những nhà dịch tễ học, bác sĩ, y tá, dược sĩ, người chăm sóc y tế ] đều bị đẩy xuống tuyến nhân vật phụ, trong khi những nhân vật phụ [ Quan chức quản lý hành chính, quân đội, công an, dân phòng ] thì nhảy lên đóng vai chính, còn đại bộ phận người dân, khoảng 90 triệu con người, trong đó có tới 2/3 là người trong độ tuổi trưởng thành, thì trở thành một đàn chuột bạch đông đảo cho các quan chức thí nghiệm với đủ mọi loại thủ tục hành chính, công văn, giấy tờ, biểu mẫu, các loại Apps ra đời vội vã để cạnh tranh với nhau, dẫm đạp lên nhau, để hành hạ người dân.

Ngoài ra, hai câu chuyện này còn được kết nối với những câu chuyện khác về các loại thuốc cổ truyền và Tây dược, các cách thức điều trị từ Đông sang Tây, và gần đây, còn được kết hợp với cả các hình thức thờ cúng tôn giáo, do một chức sắc Phật giáo có nhiều tiếng tăm lẫn tai tiếng chủ trì tiến hành để cầu nguyện cho Vaccine NanoCovax…

1. Câu chuyện xét nghiệm ở Việt Nam…

Đây là câu chuyện đầy mâu thuẫn và gây nhiều tranh cãi căng thẳng cho đến tận thời điểm hiện nay, liên quan tới các loại kits xét nghiệm, các cách thức xét nghiệm, các đối tượng bị/phải xét nghiệm.

Những con số được chính báo nhà Đảng công bố trên báo chí trong thời gian qua khiến những người còn biết quan tâm đến tình hình đất nước, đến túi tiền của bản thân, cũng như đến số phận của mình phải giật mình.

Báo cáo của Sở Y Tế Thành Phố Hồ Chí Minh ( TP.HCM ) cho thấy tính từ ngày 27/04 đến 16/09, TP.HCM lấy tất cả 1.980.495 mẫu xét nghiệm RT-PCR; 9.780.982 mẫu xét nghiệm test nhanh kháng nguyên. Chi phí cho xét nghiệm lên tới HÀNG NGÀN TỈ đồng”…

Tại Hà Nội, tính từ ngày 8 đến 16, Tháng Chín, toàn thành phố đã LẤY TRÊN 4,12 TRIỆU MẪU XÉT NGHIỆM, trên 2,96 triệu mẫu xét nghiệm bằng RT-PCR, gần 1,29 triệu mẫu thực hiện bằng test nhanh, KẾT QUẢ CHỈ PHÁT HIỆN ĐƯỢC 21 MẪU DƯƠNG TÍNH”. Tính trung bình trên 4,12 triệu mẫu xét nghiệm, CHI PHÍ TÌM RA MỘT CA DƯƠNG TÍNH THÔNG QUA XÉT NGHIỆM LÀ KHOẢNG 20 TỈ ĐỒNG [ tức 879.126 US Dollars – tám trăm bảy mươi chín ngàn một trăm hai sáu đô la Mỹ, và khoảng 1.217.372 Australian Dollars – một triệu hai trăm mười bảy ngàn ba trăm bảy mươi hai đô la Úc ].

Nguồn bài báo: https://tuoitre.vn/nen-xet-nghiem-covid-19-theo-thuc-te-tung-vung-tung-dia-phuong-thay-vi-dong-loat-20210918195526986.htm

Những con số này, so với một quốc gia mới có thu nhập đầu người khoảng 2.700 USD/năm, với hàng chục triệu con người đang lâm vào cảnh đói khát trong bệnh dịch, hàng trăm ngàn con người mắc kẹt khổ sở trong các khu cách ly, và hàng chục ngàn người đang phải chen chúc nhau trong những khu điều trị COVID trong những điều kiện y tế hết sức tồi tệ, kém cỏi, gần 1,600 trẻ em trở thành trẻ mồ côi lang thang cơ nhỡ, không có tương lai tính cho tới hiện giờ, thì mới thấy đây thật là một con số lãng khí khủng khiếp. Nhất là trong bối cảnh ông Bộ Trưởng Tài Chính Hồ Đức Phớc vừa nói “Ngân sách Trung ương cho chống dịch đã cạn kiệt”. Nó cho thấy sự quản lý yếu kém cùng cực, cũng như mức độ tham nhũng tàn nhẫn trong mua bán thiết bị vật tư y tế của những quan chức Đảng trong bộ máy nhà nước Việt cộng.

Trong khi nhiều chuyên gia dịch tễ, ngay từ khi dịch mới bùng phát đã cho rằng, thay vì xét nghiệm diện rộng bóc tách toàn bộ F0, chi cần tập trung xét nghiệm nhóm có nguy cơ cao như người giao hàng, nhân viên sân bay, nhân viên y tế, người cao tuổi…

Thì Bộ Y Tế vẫn xác định “thần tốc xét nghiệm trên diện rộng là then chốt“, ra công văn đề nghị các địa phương trực thuộc trung ương khẩn trương xét nghiệm cho toàn bộ người dân nhằm phát hiện sớm nguồn lây. Các nguồn tin cho tới sáng ngày 23/09/2021 cho biết là TP.HCM vẫn cần thêm 4.000 quân nhân chi viện để giúp thành phố tiếp tục xét nghiệm trên diện rộng cho tới hết ngày 30/09.

https://zingnews.vn/ly-do-tphcm-can-chi-vien-them-4000-quan-nhan-post1265393.html

Nhiều người đã đặt câu hỏi là: Ý kiến các chuyên gia có trọng lượng bao nhiêu đối với các quan chức Đảng khi đem so với số tiền họ đã chia nhau từ việc nhập những lượng test kit khổng lồ cộng với những chi phí làm xét nghiệm khác. Phải chăng, việc lấy mẫu này không gây ra hệ quả nghiêm trọng như chết người ngay lập tức chẳng hạn, nên họ vẫn tiếp tục bắt toàn bộ người dân phải xét nghiệm.

Nếu như tìm hiểu kỹ hơn về nguồn gốc của các bộ kit xét nghiệm này, thì người ta càng thấy câu chuyện mù mờ hơn.

Cách đây hơn một năm, ngày 05/03/2020, Bộ Khoa Học Và Công Nghệ Việt Nam đã tổ chức họp báo giới thiệu kết quả nghiên cứu chế tạo bộ test kit nhanh Corona virus đã được Bộ Y Tế cấp phép sản xuất đại trà tại Việt Nam.

Trong suốt mấy tháng sau đó, các báo Đảng hầu như ngày nào cũng đưa tin ca ngợi bộ kit xét nghiệm của Việt Nam, các báo còn đi xa hơn nữa khi thông báo “20 nước đặt mua kit phát hiện COVID-19 của Việt Nam” [ Báo Nhân Dân 17/03/2020 ], rồi “Bộ KIT xét nghiệm COVID-19 của Việt Nam được WHO chấp thuận” [ Báo Nhân Dân, ngày 25/04/2021 ].

Trong khi đó, không có một thông tin bằng tiếng Anh nào lại cho ra kết quả tương thích với những gì bài báo của Đảng đã khoác loác. Cho tới bản cập nhật vào Tháng Chín, năm 2020 của WHO, người ta vẫn KHÔNG thấy KIT xét nghiệm của Việt Nam nằm trong danh mục được chấp thuận của WHO, thông tin xem tại đây: https://www.who.int/diagnostics_laboratory/200922_eul_sars_cov2_product_list.pdf.

Sau đó không thấy báo nhà Đảng nhắc tới chuyện ai mua kit xét nghiệm của Việt Nam nữa, thay vào đó là những thông tin như Tháng Năm, năm 2021, Việt Nam được Mỹ tặng hơn 10.000 kits xét nghiệm, trong Tháng Bảy, Tháng Tám, và Tháng Chín năm 2021, Vietnam Airlines đã chuyên chở được hơn 573.000 bộ kits xét nghiệm của Đức gởi tặng Việt Nam… Số kit còn lại, hầu như không có thông tin rõ ràng về nguồn gốc.

Nếu làm một phép tính, theo thông tin từ nhiều nguồn chính thống đưa ra, giá tiền của một mẫu xét nghiệm nhanh là khoảng 280-300 ngàn đồng/một mẫu. Nếu xét nghiệm bằng RT-PCR, sẽ tốn khoảng từ 800 ngàn đến 4,5 triệu đồng/mẫu tùy từng nơi, tùy từng thiết bị, và nhân lên với hàng chục triệu mẫu test, người ta có thể hình dung ra số tiền này lớn đến như thế nào… Một thương vụ làm ăn béo bở, mà lại chỉ có thể thực hiện được trong thời kỳ bệnh dịch, của các quan chức Đảng Việt cộng. Nếu tiếp tục theo cách thức này, thì có thể một số quan chức sẽ chẳng bao giờ muốn đại dịch này kết thúc ở Việt Nam, họ cũng chẳng cần phải nhanh chóng mua vaccine về làm gì để gây thiệt hại cho chính họ.

2. Câu chuyện về Vaccine ở Việt Nam

Từ đầu mùa dịch tới giờ, vaccine luôn là câu chuyện “nóng” ở Việt Nam. Khoan bàn tới chuyện vaccine có thực sự cần thiết với tất cả mọi người hay không…

Nhưng nếu ai đó theo dõi các quan nhà Đảng thảo luận về đề tài vaccine, họ sẽ nhận ra rằng các cuộc thảo luận chưa bao giờ thật sự đi vào câu chuyện Việt Nam nên nhập vaccine gì, tại sao? Cần có những tiêu chuẩn như thế nào khi nhập các loại vaccine? Làm cách nào phân loại những người phù hợp với các loại vaccine khác nhau? Loại vaccine nào thì chích cho ai. Thay vào đó, những cuộc thảo luận chỉ xoay chung quanh việc làm sao kêu gọi người dân đóng góp nhiều hơn cho quỹ mua vaccine, làm sao để cơ chế COVAX phân bổ nhiều vaccine hơn cho Việt Nam, làm sao để ép được người Việt Nam phải chịu đựng việc “Có loại nào, xài loại đó”, rồi có nên cho các bệnh viện kinh doanh chích vaccine dịch vụ không.

Câu chuyện sau khi có vaccine rồi thì phân bổ như thế nào cũng dường như hoàn toàn phớt lờ các nghiên cứu dựa vào các nhóm tuổi tác, đặc thù nghề nghiệp, bệnh lý nền, tình trạng sức khỏe của người chích, thay vào đó, sự phân bổ này trên thực tế đã dựa trên thành phần quan chức, đảng viên, con cháu nhà đảng viên, hay quân đội, công an, dân quân tự vệ, và cuối cùng là dân thường.

Bản tin của Bộ Y Tế ngày 20/09/2021 cho biết:

Đến thời điểm này, Việt Nam đã tiếp nhận khoảng 50 triệu liều vaccine COVID-19 các loại khác nhau, [ Trong đó, có gần 10 triệu liều đến từ cơ chế COVAX ]. Đến trưa ngày 20/09, cả nước đã thực hiện tiêm được hơn 34,6 triệu liều vaccine COVID-19: https://moh.gov.vn/tin-tong-hop/-/asset_publisher/k206Q9qkZOqn/content/trua-20-9-viet-nam-tiep-nhan-khoang-50-trieu-lieu-vaccine-covid-19-nhieu-tinh-them-cac-f0-moi.

Mới đây, trong chuyến thăm Cuba ngày 20/09, ông chủ tịch Phúc đã thông báo với nhân dân Việt Nam và nhân dân Cuba “Việt Nam ký hợp đồng mua 10 triệu liều vaccine Cuba”. Không rõ kế hoạch này được triển khai từ khi nào, có thông qua cơ quan chuyên môn nào trước đó không, hay chỉ là cách làm ngẫu hứng như các quan chức Đảng đã, đang, và vẫn hành xử đối với những vấn đề liên quan đến tính mệnh của người dân trong suốt mùa dịch bệnh.

https://thediplomat.com/2021/09/vietnam-signs-cuban-covid-19-vaccine-supply-deal/

https://www.france24.com/en/live-news/20210920-vietnam-to-buy-10-million-cuban-vaccine-doses

Trong khi đó, trên các phương tiện thông tin quốc tế, chỉ có rất ít thông tin về vaccine Adbala được giới thiệu.

Trong danh sách sử dụng khẩn cấp của Tổ Chức Y Tế Thế Giới WHO được cập nhật 20/09/2021, hai loại vaccines SoberanaAdbala của Cuba nằm trong danh sách vaccine COVID-19 đang được chờ xem xét. Theo đó, “hồ sơ ứng viên” Adbala đang ở giai đoạn được WHO bày tỏ sự quan tâm [ Expression of Interest (EOI) ], thông tin ghi chú kèm theo “Chờ thông tin về chiến lược và tiến độ để nộp hồ sơ”. Sau EOI, khi nhà sản xuất bổ sung đầy đủ thông tin theo yêu cầu, WHO sẽ tổ chức họp để đánh giá trước khi quyết định chấp nhận hay không chấp nhận. Có nghĩa là vaccine này vẫn chưa được WHO tiếp nhận hồ sơ. Sau khi hồ sơ được chấp nhận, WHO sẽ tiến hành đánh giá qua năm bước, trước khi có quyết định cuối cùng về việc có phê duyệt hay không phê duyệt cho mục đích sử dụng khẩn cấp.

[ Thông tin ở đường link kèm theo ]: https://www.who.int/emergencies/diseases/novel-coronavirus-2019.

Trong khi đó, theo thông tin của Trung Tâm Kỹ Thuật Di Truyền và Công Nghệ Sinh Học [ CIGB – Center for Genetic Engineering and Biotechnology ], là một viện nghiên cứu ở Havana, Cuba, tính cho tới ngày 21/09/2021, vaccine Adbala mới được hai quốc gia là Cuba và Venezuela phê duyệt sử dụng khẩn cấp, trước khi được Bộ Y Tế Việt Nam phê duyệt. Điều này đặt ra câu hỏi Adbala hiệu quả tới đâu? Cho tới nay, rất khó tìm kiếm những nghiên cứu hoặc thông tin khoa học có tính độc lập về việc thử nghiệm và kết quả chính xác ở một mức độ nào đó của vaccine Adbala.

Thông tin tra cứu tại đây: https://covid19.trackvaccines.org/vaccines/67/

Vậy không hiểu tại sao chính phủ Việt Nam, một bộ máy gồm nhiều thành viên bất nhất, phần lớn chỉ có bằng lý luận chính trị Marxist do Đảng Cộng Sản cấp, chỉ làm công việc hành chính, không có sử dụng bất kỳ một ý kiến khoa học hoặc không có tham vấn từ một đội ngũ chuyên môn các bác sĩ, dược sĩ và các nhà khoa học, không đủ khả năng phát triển một loại vaccine riêng, lại có thể tùy tiện phê duyệt và quyết định sẽ đưa vào sử dụng cho dân Việt Nam, tại thời điểm này.

Câu chuyện này không phải chỉ mới bắt đầu từ gần đây, nếu truy ngược lại những bản tin của Việt Nam từ khi bệnh dịch mới xuất hiện ở Việt Nam…

Trong suốt năm 2020, chính phủ Việt Nam đã tỏ ra rất tự tin với chiến thắng làn sóng COVID đầu tiên của mình. Những bản tin được truy xuất lại đã không cho thấy bất kỳ động thái nào của chính phủ Việt Nam trong việc chuẩn bị cho làn sóng COVID thứ hai, bao gồm việc chuẩn bị cơ sở vật chất, nhân lực cho ngành y tế, việc đặt hàng vaccine, xây dựng các khu cách ly, các biện pháp bảo đảm sản xuất và chuỗi cung ứng, cũng như vấn đề an cư của một bộ phận lớn dân chúng… Chỉ có những bản tin đầy tự hào và ngạo nghễ về thành tích chống dịch của Việt Nam…

Cho đến đầu năm 2021, nhiều bản tin của Việt Nam còn đánh giá thấp chất lượng vaccine của Trung Quốc, và hứa hẹn rằng Chính Phủ không có ý định nhập vaccine Trung Quốc cho dân Việt Nam xài. Tờ Công An Nhân Dân ngày 11/04/2021 còn cho đăng bài “Quan chức Trung Quốc xác nhận vaccine Sinovac hiệu quả không cao“.

Để người dân yên tâm, đầu Tháng Giêng, năm 2021, Thứ Trưởng Trương Quốc Cường cho biết Bộ Y Tế đã ký với công ty AstraZeneca của Anh mua 30 triệu liều vaccine, bảo đảm tiêm phòng cho 15 triệu dân.

https://vtv.vn/xa-hoi/viet-nam-nhap-khau-30-trieu-lieu-vaccine-covid-19-tu-anh-trong-nam-2021-20210104134744366.htm

Đồng thời, cũng vào Tháng Giêng, năm 2021, các báo Đảng rầm rộ thông báo, Vaccine COVID-19 thứ 2 của Việt Nam thử nghiệm trên người trong Tháng Giêng, năm 2021, dự kiến ra mắt thị trường vào cuối năm, điều này dường như để nói với dân chúng rằng Việt Nam sẽ không phải lo về vaccine, sẽ có đủ vaccine cho mọi người, và không cần quá lệ thuộc vào vaccine nước ngoài.

Tuy nhiên, cũng như nhiều tuyên bố khác của Đảng trong suốt những năm qua, nhiều người Việt Nam có nhận thức cũng hiểu rằng, chắc chắn sẽ không có chuyện vaccine Việt Nam sẽ sớm được phê duyệt. Nó cũng giống như câu chuyện kit xét nghiệm của Việt Nam trước đó.

Sau khi tung ra những bài báo giới thiệu về hàng loạt các loại vaccine AstraZeneca, Moderna, Pfizer, Johnson and Johnson, và những thông tin chính phủ đã đàm phán với các chính phủ nước này, nước nọ, tập đoàn này, tập đoàn kia, để mua mỗi loại mấy chục triệu liều, rồi chính phủ gọi điện cho nước này nước kia yêu cầu/đề nghị chuyển giao công nghệ sản xuất vaccine này, vaccine kia. Sau hàng loạt những lời kêu gọi người dân đóng tiền cho quỹ mua vaccine nhà Đảng, để Đảng mang tiền vô gởi ngân hàng, mà dân Việt Nam cuối cùng vẫn không thấy mặt mũi vaccine của tư bản ở đâu, thì đột ngột, các bồi bút của Đảng bắt đầu trở bút.

Bắt đầu bằng việc dịch các bài báo của Trung Quốc tự ca ngợi vaccine của họ, các nhà báo Đảng bắt đầu chiến dịch ca ngợi vaccine của người bạn bốn tốt mười sáu chữ vàng Trung cộng. Đây cũng là điều mà người Việt Nam quan tâm tới thời sự đã dự đoán được ngay từ đầu mùa dịch. Việc bắt buộc phải mua các sản phẩm của các công ty Trung Cộng, trong hàng mấy thập kỷ qua, là điều mà các quan chức Việt cộng đã dính líu rất sâu để đổi lấy những lợi ích cho riêng họ, sẽ không thể đảo ngược nếu như chính quyền Việt cộng vẫn cai trị đất nước này. Dĩ nhiên, họ chỉ làm như vậy sau khi họ đã tính toán rằng số vaccine tốt nhất mà họ có thể nhận qua cơ chế COVAX, cộng với số ít ỏi họ mua được từ các quốc gia tư bản đủ dùng cho các quan chức đảng, gia đình của họ và những lực lượng cần thiết cho sự thống trị của họ.

Rồi trong khi 30 triệu liều AstraZeneca ông thứ trưởng Bộ Y Tế hứa hẹn đã ký hợp đồng nhận về chưa thấy đâu, mới chỉ thấy có vài triệu liều các quốc gia tư bản gởi tặng, thì người ta đột ngột đọc được thông tin công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Dược Sài Gòn vừa được Cục Quản Lý dược ( Bộ Y Tế ) cho phép nhập khẩu lô vaccine Vero Cell của Sinopharm ( Trung Quốc ) để đáp ứng nhu cầu cấp bách cho phòng chống dịch COVID-19 tại Việt Nam. Tuy nhiên, thông tin của những loại vaccine này cũng chỉ được giải thích rất mập mờ.

Theo trang covid19.trackvaccines, có bốn loại vaccines có đuôi đi kèm Vero Cell, hai loại do công ty Sinopharm sản xuất, một loại là Sinopharm ( Bắc Kinh ) BBIBP-CorV ( Vero Cells ), đã được 64 quốc gia và vùng lãnh thổ chấp nhận, một loại khác cũng của tập đoàn Sinopharm ( Vũ Hán ), Vero Cells, mới được một quốc gia là Trung Quốc thông qua.

Loại thứ ba có đuôi Vero Cell nữa là của tập đoàn Minhai Biotechnology, tên đầy đủ là “Co: SARS-CoV-2 Vaccine ( Vero Cells )”, cũng mới được một mình Trung Quốc thông qua, và loại Vero Cell còn lại là “Chinese Academy of Medical Sciences ( Vero Cells )” [ do Học Viện Khoa Học Y Khoa Trung Quốc nghiên cứu ] mới vừa trải qua 5 đợt thử nghiệm và chưa được quốc gia nào thông qua.

Cho tới tận ngày cập nhật gần đây nhất là 17/09/2021, ngoài loại Sinopharm ( Bắc Kinh ) BBIBP-CorV ( Vero Cells ), thì các loại có tên kèm theo Vero Cell còn lại vẫn chưa được nơi nào khác thông qua ngoài Trung Quốc.

Thông tin tra tại đây: https://covid19.trackvaccines.org/country/china/

Phải chăng vì vậy mà cách đây một tuần, có nhiều bài báo đã cho đăng thông tin “Tổng Cục Hải Quan yêu cầu giám định một số lô vaccine Vero Cell ( Sinopharm ) do nhận thấy hàm lượng hoạt chất kháng nguyên bất hoạt trên giấy phép là 6,6U nhưng trên phiếu kiểm nghiệm là 6,9-7,8U, nhiều người bày tỏ băn khoăn về chất lượng vaccine“. Chỉ sau một ngày, hầu hết các bài báo đều đã gỡ bài đăng có nội dung trên trên trang điện tử của họ.

https://www.baogiaothong.vn/yeu-cau-giam-dinh-ham-luong-hoat-chat-vaccine-vero-cell-chuyen-gia-noi-gi-d525049.html

Đã nhập về rồi, tiền đã chia rồi, thì kiểu gì cũng sẽ phải bắt người dân phải xài… Đó là lý lẽ xưa nay của chính quyền Việt cộng.

Trong thời gian đầu khi Miền Nam rồi cả nước mới phong tỏa, tâm lý chống vaccine Trung Quốc lúc đầu là rất mạnh trong dân chúng… Nhiều người dân đã đóng tiền cho quỹ vaccine với mong mỏi được chích những loại vaccine tốt hơn. Tuy nhiên, khi dịch bùng phát mạnh, đẩy nhiều người dân tới chỗ kiệt quệ về kinh tế, Đảng chờ tới khi đó, đã tung ra những tuyệt chiêu cuối cùng, chẳng buồn che dấu thái độ thần phục Tàu cộng.

Báo Đảng rao tin : Nhiều người dân Thành Phố Thủ Đức tự nguyện tiêm vaccine Vero Cell [ Bộ Y Tế 18/08/2021 ].

Dữ liệu hiệu quả “tuyệt vời” của vaccine Trung Quốc với biến thể Delta” [ Lao Động ngày 22/08/2021 ]; “Vaccine Vero Cell của Sinopharm hiệu quả, người dân nên sẵn sàng tiêm” [ Trung tâm kiểm soát Bệnh tật tỉnh Đồng Nai ngày 31/08/2021 ]; và kết quả mới đây, “Phân bổ 8 triệu liều vaccine COVID-19 Sinopharm cho Hà Nội, TP.HCM và 23 tỉnh, thành” [ Thanh Niên 19/09/2021 ].

Cũng trong cùng thời gian đó, vào ngày 02/09/2021, nhiều tờ báo đã đưa tin, Bắc Triều Tiên, một trong những quốc gia nghèo khổ nhất thế giới đã “từ chối khoảng 3 triệu liều vaccine ngừa COVID-19 của Công ty Công nghệ sinh học Sinovac ( Trung Quốc )”: https://cand.com.vn/the-gioi-24h/trieu-tien-tu-choi-nhan-gan-3-trieu-lieu-vaccine-trung-quoc-i626730/; và tới ngày 10/09/2021, người ta đọc được bản tin “Trung Quốc viện trợ thêm 3 triệu liều vaccine cho Việt Nam”: https://tuoitre.vn/trung-quoc-vien-tro-them-3-trieu-lieu-vac-xin-cho-viet-nam-20210910202708134.htm. Người nào đọc hai bản tin này cũng có một sự liên tưởng rằng 3 triệu liều vaccines bị Bắc Triều Tiên từ chối một cách lịch sự, sau cùng đã tìm được chỗ để tiêu thụ.

Phần còn lại của câu chuyện…

Sau cùng thì cũng sắp tới ngày chính phủ sẽ lại có lý do hợp lý để tiêu xài tiếp hàng ngàn đến hàng chục ngàn tỉ tiền thuế của người dân [ của cả người dân hiện tại lẫn người dân tương lai ] để in ra các loại thẻ xanh, thẻ vàng, thẻ đỏ gì đó để phát cho người dân, những người đang mong chờ được ra khỏi nhà để kiếm sống bằng sức lực của chính họ. Theo những hướng dẫn hiện tại, phần lớn những người này ngoài việc chích từ một tới hai liều vaccine thì vẫn phải làm thêm xét nghiệm để đảm bảo họ có kết quả âm tính. Điều đó có nghĩa là KIT sẽ tiếp tục được nhập về xài vô tội vạ, trong khi dân thường – những người được Đảng cộng sản vinh danh là “gốc rễ”, là “nền tảng”, là “nước có thể gây lật thuyềnsẽ khó có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải trở thành vật thử nghiệm, chích những liều vaccine chưa được công nhận bởi một tổ chức uy tín nào trên thế giới, và làm xét nghiệm để xài cho hết những bộ KIT đã được tập đoàn quan đảng nhập về.

Sau đợt dịch này, người ta chưa biết kinh tế của Việt Nam bao giờ mới hồi phục trở lại, và đời sống của hàng chục triệu người dân không biết bao giờ mới có thể bình thường trở lại. Những người chích các loại vaccine chưa nhận được tín nhiệm liệu sẽ có những biến chứng gì trong tương lai…

Nhưng gần như có thể chắc chắn rằng trong những năm tới, lại sẽ có thêm những ngôi mộ được xây trên hàng ngàn mét vuông đất nông nghiệp, hàng loạt các công ty “sân sau” của các thành viên chính phủ, thậm chí của Tàu cộng, sẽ được thành lập, hòng dìm chết những công ty tư nhân mới nổi của Việt Nam, hàng chục ngàn con nhà Đảng tiếp tục đi nước ngoài du học bằng những khoản tiền của cha mẹ chúng kiếm được trong mùa dịch, và sẽ có nhiều tấm hộ chiếu tư bản sẽ được mua nhờ những khoản tiền ăn trên xương máu của đồng bào mình vào những thời điểm khó khăn nhất.

Những câu chuyện như thế này hẳn là sẽ chưa dừng lại ở mùa dịch này đâu…

Vậy nên… Đừng mong chờ một sự thay đổi nào trên đất nước này khi nó vẫn còn được đặt dưới bộ máy cai trị của Đảng cộng sản độc tài tham lam và vô cảm…

Người dân hãy tự mình trang bị lấy kiến thức, nhận thức để tự cứu mình và con cháu mình nếu không muốn tiếp tục trở thành những nô lệ, và những vật thí nghiệm vô giá trị trong tay của Đảng.

Tác Giả: Từ Liên.

Trung Quốc Ở Đâu Trong Con Mắt Người Nước Ngoài? Tác Giả: Từ Liên.


Tuy nhiên, câu chuyện của Trung Quốc vẫn chỉ là câu chuyện của một quốc gia đơn độc… một quốc gia được mệnh danh là Kẻ Bắt Nạt lớn nhất thế giới.

Khoảng một thập niên gần đây, Trung Quốc dường như khuấy đảo cả thế giới, với những tham vọng không che dấu của họ về việc họ sẽ đưa đất nước của họ lên vị trí siêu cường số 1 của thế giới trên mọi lĩnh vực. Họ sẽ soán ngôi Hoa Kỳ cả trên trái đất lẫn ngoài vũ trụ, trút bom hạt nhân xuống Nhật Bản, thu hồi Đài Loan, biến Biển Đông thành ao nhà, đẩy Ấn Độ rớt khỏi cao nguyên Tây Tạng vĩnh viễn, Hán hóa toàn bộ các dân tộc yếm thế và các cộng đồng thiểu số đang sống trên đất nước Trung Hoa, thiết lập hàng rào kiên cố bao bọc hệ thống “thuộc địa mới” của họ với chiến lược Vành Đai Và Con Đường, từ Châu Á qua Châu Phi, qua tới Châu Âu và cả Châu Mỹ Latin, biến nền kinh tế Trung Cộng thành nền kinh tế sản xuất lớn và hiện đại nhất địa cầu, biến các chiến lang Trung Quốc thành những đội quân hùng mạnh nhất trong vũ trụ tương lai.

Tháng trước, Tờ Hoàn Cầu thời báo của Trung Quốc đưa tin, từ ngày 01/09, Trung Cộng sẽ áp dụng quy định yêu cầu những người điều khiển một số loại tàu thuyền phải khai báo thông tin chi tiết về hải trình khi đi vào vùng lãnh hải mà Trung Cộng tuyên bố chủ quyền. Các loại tàu thuyền phải khai báo bao gồm tàu có thể lặn, tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân, tàu chở vật liệu phóng xạ, tàu chở hóa chất, khí hóa lỏng… Đây là các loại tàu mà Trung Cộng cho là “có thể gây nguy hiểm cho an toàn giao thông hàng hải”.

Việc khai báo bao gồm cả thông tin của cảng dự kiến sắp đến và thời gian dự kiến đến, tên và chủng loại hàng hóa chở theo… Sau khi vào “lãnh hải tự nhận” của Trung Cộng, nếu hệ thống nhận diện tự động của tàu không hoạt động tốt thì phải khai báo mỗi 2 giờ cho đến khi rời khỏi lãnh hải.

Nhiều quốc gia đã lên tiếng đáp lại những lời đe dọa hung hăng của Trung Quốc… [ Hình như không có Việt Nam ].

Ngày 19/09/2021, báo Nikkei của Nhật Bổn có bài đăng nhận xét về quân đội của Trung Quốc với tựa đề “Quân đội Trung Quốc có một “gót chân Achilles”: Tinh thần quân đội thấp. Link:

https://asia.nikkei.com/Politics/China-s-military-has-an-Achilles-heel-Low-troop-morale

Nhận xét về một tấm hình những binh sĩ của quân đội Trung Cộng mạnh mẽ và cơ bắp, tờ báo này nói: Một đội quân khoe cơ bắp của họ để mọi người có thể nhìn thấy, như chúng ta vẫn nhìn các vũ khí khác là tên lửa và xe tăng… nhưng đây chỉ là một phần của sức mạnh. Tinh thần của binh lính là một câu chuyện khác.

Đội quân con một‘ này, do đó có xu hướng phải bổ sung bằng máy bay viễn khiển và các tên lửa đạn đạo.

Trong nhiều diễn biến hành động, Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã vô tình để lộ những điểm yếu của quân đội nước này.

Đã có dấu hiệu cho thấy việc xây dựng các cơ sở phóng tên lửa đạn đạo xuyên lục địa mới ở một vùng sa mạc nội địa của Trung Quốc. Hoạt động còn lại gồm một loạt nỗ lực tiếp theo nhằm tăng tỷ lệ sinh con của người dân Trung Quốc, bao gồm các biện pháp giúp giảm gánh nặng tốn kém trong việc giáo dục con cái. Đằng sau những động thái này là bằng chứng cho thấy nước này đang giải quyết những lo ngại liên quan đến tinh thần binh lính và khả năng của quân đội trong việc tham dự vào một cuộc chiến kéo dài.

Trong gần một thập kỷ gần đây, Trung Quốc đã hoạt động hết sức “bận rộn” ở Biển Đông, đầu tiên là xây dựng các đảo nhân tạo, sau đó triển khai thiết bị radar và tên lửa để ngăn chặn máy bay và tàu quân sự nước ngoài tiếp cận khu vực này, và cuối cùng là triển khai tàu ngầm hạt nhân chiến lược có khả năng phóng tên lửa đạn đạo ở vùng biển hiện tại họ cho rằng họ đang phải bảo vệ.

Tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm, được gọi là SLBM [ Submarine-Launched Ballistic Missiles ], là loại vũ khí tối tân. Chúng cho phép các quốc gia tránh được tình trạng bị đặt vào những vị trí bất lợi khi những tàu ngầm chuyên chở chúng đang kẹt ở vùng nước sâu, chúng sẽ giữ chân kẻ thù cho đến phút cuối cùng.

Vậy tại sao Trung Quốc lại gấp rút xây dựng các căn cứ ICBM [ InterContinental Ballistic Missiles, tức các cơ sở phóng tên lửa đạn đạo xuyên lục địa ] mới ở các vùng sa mạc nội địa? Các chuyên gia cho rằng nguyên nhân nằm ở chỗ, mặc dù Trung Quốc đã quân sự hóa một số vùng biển ở Biển Đông và triển khai SLBM, [ tức tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm ], nhưng nước này đã không còn tự tin có thể bảo vệ khu vực này nếu xung đột phát sinh.

Vào Tháng Giêng năm 2018, một tàu ngầm Trung Quốc đã bị bẽ mặt khi nó tiết lộ về khả năng hoạt động kém hiệu quả ở cấp độ cao. Chiếc tàu ngầm đang di chuyển dưới đáy biển tại khu vực tiếp giáp quần đảo Senkaku của Nhật Bản, trên biển Hoa Đông, đã nhanh chóng bị Lực Lượng Phòng Vệ Nhật Bản phát hiện.

Nó đã nhanh chóng phải nổi lên và không ngần ngại giương cao lá cờ Trung Quốc, cũng có thể là lá cờ trắng đầu hàng; thủy thủ đoàn có lẽ sợ rằng tàu của họ có thể bị tấn công với các đòn mạnh mẽ từ Nhật Bản.

Theo luật pháp quốc tế, Lực Lượng Phòng Vệ Hàng Hải có thể coi con tàu này như một “tàu ngầm không xác định” đã xâm nhập vào lãnh hải Nhật Bản khi đang chìm dưới nước.

Nhiều quan chức Nhật Bản và Hoa Kỳ tin rằng vụ việc này đã bộc lộ tinh thần thấp kém của quân đội Trung Quốc.

[ Hình ảnh đi kèm ]: Một tàu ngầm Trung Quốc giương cờ đầu hàng sau khi buộc phải nổi lên gần quần đảo Senkaku của Nhật Bản vào Tháng Giêng năm 2018. ( Ảnh do Bộ Quốc Phòng cung cấp ).

Một tàu ngầm Trung Quốc giương cờ đầu hàng.

Hải quân Trung Quốc đang thực hiện chương trình đóng hàng không mẫu hạm, nhưng một cựu quan chức Bộ Quốc Phòng Nhật Bản dự đoán hàng không mẫu hạm Trung Quốc sẽ không rời quân cảng của họ trong các cuộc xung đột vì lo sợ chúng có thể bị tấn công và đánh chìm.

Trong một phần tư thế kỷ qua, các chính phủ của Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã tăng chi tiêu quân sự và tổ chức các cuộc duyệt binh và duyệt binh hải quân thường xuyên. Nhưng có thể nhìn thấy được tên lửa và xe tăng chỉ là một thành phần của sức mạnh quân sự. Tuy nhiên, còn có những yếu tố “đầu vào” vô hình mà người ta đã không nói tới, trong số đó có tinh thần của quân đội.

Một số người tin rằng tinh thần thấp kém của binh lính Trung Quốc hiện nay đến từ chính sách một con lâu đời của nước này, điều khiến quân đội nước này trở thành một trong những “đội quân con một” lớn hàng đầu thế giới.

Hơn 70% binh lính Trung Quốc là ‘con một’, và phần còn lại là con thứ hai hoặc sau con thứ mà cha mẹ của họ đã phải nộp những khoản tiền phạt để sanh ra chúng“, Kinichi Nishimura, một cựu sĩ quan Lực Lượng Phòng Vệ Mặt Đất, người đã nhiều năm phân tích cán cân quân sự của Đông Á tại Trụ Sở Tình Báo Quốc Phòng của Bộ Quốc Phòng cũng như ở nhiều cơ quan khác, cho biết.

Quan điểm của Nho Giáo cho rằng con cái phải kính trọng và chăm sóc cha mẹ, tổ tiên vẫn ăn sâu vào Trung Quốc. Do đó, các bậc cha mẹ đặc biệt không muốn thấy việc con của mình chết sớm hơn họ. Các bậc cha mẹ của các hộ gia đình một con càng phải cảm thấy có niềm tin mạnh mẽ hơn về việc con trai hoặc con gái duy nhất của họ phải tiếp nhận trọng trách phụng dưỡng này [ chứ không được phép chết trước họ ].

Ở Trung Quốc, nơi mọi người có xu hướng ít tôn trọng người lính hoặc nghề làm lính, có một câu nói: “Thép tốt không trở thành đinh“, nghĩa là những cá nhân đáng kính không trở thành quân nhân. Để đảm bảo có đủ quân số, đảng cộng sản Trung Quốc đã phải nỗ lực cải thiện tiền lương và lương hưu trong những năm qua.

Vào ngày 1 Tháng Tám, chính phủ đã ban hành luật bảo vệ địa vị, quyền và lợi ích của quân nhân. Nỗ lực tuyệt vọng này là nhằm để cải thiện tình trạng của những người chọn theo sự nghiệp quân sự, và đây có thể là một dấu hiệu cho thấy Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân ( PLA ) đã không thể xoay chuyển được các cố gắng tuyển dụng thêm binh lính của mình, đặc biệt là trong bối cảnh tỷ lệ sinh đang giảm của đất nước.

Quân đội Trung Quốc đã tăng cường triển khai chiến hạm và máy bay chiến đấu kể từ vài năm trước“, Nishimura nói, “nhưng tỷ lệ hoạt động của chúng không chính xác cao. Có vẻ như họ không thể đào tạo đủ binh sĩ để bảo dưỡng và sửa chữa đúng cách“, đặc biệt là đối với những phần cứng có sử dụng công nghệ cao.

Đây là một phần lý do tại sao quân đội Trung Quốc trong những năm gần đây đã phụ thuộc nhiều hơn vào máy bay viễn khiển và tên lửa đạn đạo. Số lượng tên lửa đạn đạo mà Trung Quốc triển khai đã tăng lên vài ngàn tên lửa.

Một trong những học thuyết quân sự của PLA không được nhiều người biết đến là “Trong những trận chiến ban đầu, hãy phóng một số lượng lớn tên lửa, và sau đó ngay lập tức rời khỏi chiến tuyến.” Chiến lược này được học từ Liên Xô cũ, mà quân đội Liên Xô đã đóng vai trò là giáo viên hướng dẫn, vào thời điểm Trung Quốc thành lập PLA.

Trong vài năm qua, PLA đã gấp rút bổ sung thêm nhiều máy bay chiến đấu, tàu nổi và tàu ngầm, điều này có thể cho thấy ý định của họ là tăng số lượng tên lửa có thể phóng khi trận chiến bắt đầu. Máy bay viễn khiển được cho là có cùng mục đích. Chiến lược này sẽ tiếp tục, đặc biệt là khi quân đội không thể đảm bảo đủ số lượng binh lính có thể tham chiến.

Để tự bảo vệ mình khỏi các cuộc tấn công bằng tên lửa của Trung Quốc, Nhật Bản và các quốc gia khác phải bắt đầu nghĩ đến việc tăng cường các biện pháp để giảm thiểu thiệt hại. Các biện pháp này bao gồm phát triển và triển khai vũ khí thế hệ tiếp theo, bao gồm vũ khí laser năng lượng cao và súng railgun, sử dụng lực điện từ để phóng đạn với tốc độ cực cao. Nhật Bản đã có nền tảng công nghệ để phát triển các loại vũ khí này, mặc dù năng lực này không được công bố rộng rãi trong nước [ để tránh những phản ứng trái chiều của người dân đối với những đầu tư về quân sự ].

Trong khi đó, nhiều bản tin khác cũng cho thấy rằng, hiện nay, mặc dù Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã có sự đầu tư và cải thiện rất lớn về mặt vũ khí quân sự, tuy nhiên, hầu như không có quốc gia phát triển nào sẵn sàng giúp đỡ Trung Quốc với những công nghệ mới và an toàn của họ. Điều này đến từ việc thiếu sự tin tưởng vào Trung Quốc cũng như có các lo ngại đến từ việc Trung Quốc đã không che đậy dã tâm “xâm chiếm” thế giới của họ. Do đó, phần lớn các công nghệ của Trung Quốc hiện tại là sự chắp vá những gì họ đã đánh cắp lại từ những phòng lab trên khắp thế giới và nghiên cứu lại trong các phòng thí nghiệm của họ, với sự trợ giúp của nhiều nhà nghiên cứu được Trung Quốc gửi đi hoặc thu hút về từ nhiều nơi trên thế giới.

https://nationalinterest.org/blog/reboot/chinas-air-force-may-be-its-own-worst-enemy-185673


https://nationalinterest.org/blog/buzz/navy-ready-kill-chinas-aircraft-carrier-open-sea-98327

Bản tin số 2, liên quan đến sức mạnh kinh tế của Trung Quốc thường vẫn được Bắc Kinh thổi phồng trong nhiều năm qua. Đã có các cáo buộc điều tra cho rằng các quan chức của Ngân Hàng Thế Giới, World Bank, đã thay đổi phương thức hoạt động và cách đánh giá của họ theo cách có lợi cho Trung Quốc.

Các nguồn của bản tin này đến từ ba tờ báo sau:

(1) CNN ngày 17/9/2021, “Điều tra cho thấy các nhà lãnh đạo Ngân Hàng Thế Giới đã thúc đẩy các nhân viên tăng thứ hạng cho Trung Quốc và Saudi Arabia trong các báo cáo cấp cao”:

https://edition.cnn.com/2021/09/17/business/world-bank-investigation/index.html

(2) Reuters ngày 16/09/2021 có tựa đề “Cuộc điều tra cho thấy ‘áp lực quá mức’ từ các nhà lãnh đạo Ngân Hàng Thế Giới để tăng thứ hạng doanh nghiệp Trung Quốc”:

https://www.reuters.com/world/china/probe-found-undue-pressure-world-bank-leaders-boost-china-business-rankings-2021-09-16/

(3) Aljazeera, ngày 17/09/2021: “Cuộc điều tra đã phát hiện ra dữ liệu của Ngân hàng Thế giới đã bị thay đổi để tăng thứ hạng của Trung Quốc”:

https://www.aljazeera.com/economy/2021/9/17/probe-finds-world-bank-changed-data-to-boost-china-ranking

Ngân Hàng Thế Giới, vào Thứ Năm [ 16/09/2021 ] cho biết họ sẽ ngừng công bố Báo Cáo Kinh Tế “Doing Business” thường niên của mình, sau khi một cuộc điều tra độc lập cho thấy các lãnh đạo Ngân Hàng Thế Giới đã gây “áp lực quá mức” đối với nhân viên trong việc thay đổi dữ liệu để tăng thứ hạng cho Trung Quốc và Saudi Arabia trong các phiên bản báo cáo năm 2018 và 2020. Cuộc điều tra cũng cho thấy có “sự bất thường về dữ liệu” trong các ấn bản vào năm 2018 và 2020 và các “vấn đề đạo đức” có thể liên quan đến các quản lý của Ngân Hàng Thế Giới.

Ngân hàng đã ủy quyền cho công ty luật WilmerHale tiến hành cuộc điều tra độc lập.

Các nhà điều tra phát hiện ra khi đó, Giám đốc điều hành Ngân Hàng Thế Giới là bà Kristalina Georgieva, hiện đang là giám đốc điều hành của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế ( IMF ), đã gây áp lực buộc nhóm soạn thảo báo “Doing Business” vào năm 2017 để “thay đổi phương pháp của báo cáo” hoặc “thực hiện các thay đổi cụ thể” đối với các điểm dữ liệu nhằm làm tăng thứ hạng của Trung Quốc trong báo cáo kinh tế ấn bản năm 2018.

Điều này xảy ra sau khi các quan chức chính phủ Trung Quốc liên tục bày tỏ quan ngại với bà Georgieva và Chủ tịch Ngân Hàng Thế Giới lúc đó là ông Jim Yong Kim về xếp hạng của đất nước họ, theo cuộc điều tra dài 16 trang do WilmerHale công bố.

Vào thời điểm đó, Ngân Hàng Thế Giới đang tiến hành các cuộc đàm phán về một chiến dịch tăng vốn, trong đó Trung Quốc “được cho là sẽ đóng một vai trò quan trọng“. Bà Georgieva đã “trực tiếp tham gia” vào việc điều chỉnh dữ liệu để cải thiện thứ hạng của Trung Quốc. Theo cuộc điều tra độc lập, Giám đốc điều hành khi đó “đã trách phạt Giám đốc phụ trách quốc gia [ Trung Quốc ] đương nhiệm của Ngân Hàng Thế Giới, vì đã “điều hành sai” mối quan hệ của Ngân Hàng Thế Giới với Trung Quốc và không đánh giá cao tầm quan trọng của Báo Cáo Kinh Tế đối với đất nước Trung Quốc”.

Bà Kristalina Georgieva bị cáo buộc là đã gây áp lực buộc nhân viên phải “thực hiện những thay đổi cụ thể đối với các điểm dữ liệu của Trung Quốc” và tăng xếp hạng của nó, vào thời điểm mà ngân hàng đang tìm kiếm sự ủng hộ của Trung Quốc đối với việc tăng vốn trên quy mô lớn của họ.

Theo báo cáo của WilmerHale, các nhà lãnh đạo Nhóm Kinh Doanh đã tăng xếp hạng của Trung Quốc trong một cuộc khảo sát thêm 7 bậc, đưa họ lên thứ tự 78, bằng cách xác định các điểm dữ liệu mà họ có thể sửa đổi, bao gồm cả việc cho quốc gia này “tín nhiệm nhiều hơn” đối với luật giao dịch bảo đảm của Trung Quốc.

Trong khi đó, vào Tháng Mười năm 2017, cuộc điều tra cho thấy các trợ lý của ông Kim cũng đã chỉ đạo một nhóm khảo sát chạy mô hình mô phỏng những cách thức khiến điểm số cuối cùng của Trung Quốc có thể thay đổi, nếu dữ liệu từ Đài Loan và Hồng Kông được đưa vào dữ liệu hiện có của đất nước. Báo cáo nói rằng các lãnh đạo của nhóm viết “Doing Business” “tin rằng sự chỉ đạo này trực tiếp đến từ Chủ Tịch Kim.

Hiện tại, bà Georgieva, đã từ chối nhận trách nhiệm của mình như bản điều tra cáo buộc, trong khi ông Kim vẫn chưa trả lời email của CNN.

Ban điều hành IMF đã yêu cầu một Ủy Ban Đạo Đức xem xét lại cuộc điều tra WilmerHale. Sau đó, Ủy Ban sẽ báo cáo lại với Hội Đồng về đánh giá của họ.

Ngân Hàng Thế Giới, có trụ sở chính tại Washington, là một trong những nguồn tài trợ phát triển lớn nhất thế giới. Kinh doanh, xem xét thuế, đề ra các quy định và các điều kiện kinh doanh khác, mà thường được một số chính phủ dẫn chứng trong các báo cáo để cố gắng thu hút đầu tư. Nó xếp hạng các quốc gia dựa trên các yếu tố như mức độ đơn giản hay khó khăn khi đăng ký kinh doanh, thực thi hợp đồng hợp pháp, giải quyết những trường hợp phá sản, kết nối cơ sở hạ tầng, hoặc xin giấy phép xây dựng, v.v…

Trong hai thập kỷ qua, Trung Quốc đã cố gắng gia tăng ảnh hưởng của mình đối với các tổ chức quốc tế bao gồm IMF, Tổ Chức Y Tế Thế Giới và các chính sách của họ.

Những thay đổi trong báo cáo năm 2018 đã xảy ra sau khi Trung Quốc vận động hành lang để có thứ hạng tốt hơn, và trước chiến dịch huy động vốn của Ngân Hàng Thế Giới, trong đó Bắc Kinh được cho là sẽ đóng “vai trò chủ chốt”, báo cáo cho biết. Trung Quốc là cổ đông lớn thứ ba của ngân hàng sau Hoa Kỳ và Nhật Bản.

Ngoài Trung Quốc, cũng có những thay đổi dữ liệu khác ảnh hưởng đến thứ hạng của Azerbaijan, Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống nhất và Saudia Arabia.

Một giám đốc cấp cao của Ngân Hàng Thế Giới thừa nhận ban lãnh đạo đã thực hiện những thay đổi để “đẩy dữ liệu theo một hướng nhất định để phù hợp với các cân nhắc địa chính trị“. Người này giải thích điều đó nhằm để “không chọc giận Trung Quốc” trong các cuộc đàm phán tăng vốn, báo cáo cho biết.

Hai bản tin trên chỉ tiết lộ một phần những sự thật mà Trung Quốc trong nhiều năm, đã cố gắng che đậy những điểm yếu kém và thổi phồng về thực lực của họ.

Gần đây, những báo cáo về tình hình kinh doanh của Tập đoàn Bất động sản Evergrande ( trước đây là Tập Đoàn Hengda – Hằng Đại ) là nhà phát triển bất động sản lớn thứ hai Trung Quốc và là tập đoàn lớn thứ 122 trên thế giới theo doanh thu, theo Danh Sách Fortune Global 500 năm 2021. Năm 2018, nó trở thành công ty bất động sản có giá trị nhất thế giới. Từ Tháng Tám, 2021, Tập Đoàn Evergrande đang phải đối mặt với số lượng kỷ lục các vụ kiện do các nhà thầu đệ trình lên tòa án Trung Quốc với món nợ 300 tỷ USD phải trả của tập đoàn này [ Số tiền này lớn Hơn 1 năm GDP của toàn đất nước Việt Nam năm 2020 là 271 tỷ USD, World Bank ]. Vào ngày 20 Tháng Chín năm 2021, cổ phiếu của Evergrande đã giảm 19% tại Hồng Kông, mức thấp nhất trong 11 năm.

https://www.bbc.com/news/business-58579833


https://www.reuters.com/business/investors-grappling-with-evergrande-fallout-weigh-risk-wider-pain-2021-09-20/


https://www.afr.com/markets/equity-markets/evergrande-contagion-infects-global-markets-20210921-p58tdh


https://www.abc.net.au/news/2021-09-21/china-property-bust-evergrande/100472190

Sự sụp đổ của tập đoàn này của Trung Quốc dự báo kéo theo nhiều hệ lụy khó tưởng tượng được đối với nền kinh tế có một phần rất lớn dựa trên bong bóng Bất Động Sản của Trung Quốc.

Không phủ nhận được rằng, Trung Quốc cũng đã thành công trong việc mua chuộc các quan chức và lũng đoạn nhiều tổ chức Quốc Tế lớn vốn vẫn được tín nhiệm trong nhiều năm… Tuy nhiên, câu chuyện của Trung Quốc vẫn chỉ là câu chuyện của một quốc gia đơn độc… một quốc gia được mệnh danh là Kẻ Bắt Nạt lớn nhất thế giới. Với những cốt chuyện được xây dựng vội vã, cẩu thả và lỏng lẻo… câu chuyện này có thể sẽ hứa hẹn một kết thúc bất ngờ và sớm hơn nhiều so với những gì nó dự định, trong tương lai.

Tác Giả: Từ Liên.

Có Hai Việt Nam: Việt Nam Của Đảng Và Việt Nam Trong Con Mắt Của Người Nước Ngoài… Tác Giả: Từ Liên.

Tương lai của nền tự do Việt Nam chắc chắn có phần đáng kể phụ thuộc vào việc có thêm nhiều nguồn thông tin đa chiều trên những phương tiện thông tin chính thống ở nước ngoài như thế này…

Tại phiên khai mạc Đại Hội XIII của Đảng ngày 26/01/2021,Tổng Bí thư Đảng đã hồ hởi thông báo với đại biểu và quốc dân “Đất nước ta chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay“.

Người dân Việt thực tình là không biết ông Tổng đã quẩn quanh trong phủ của ngài bao lâu rồi, không đặt chân ra tới thế giới bên ngoài, mà đội ngũ cố vấn chân rết hùng hậu của ngài cũng không biết đã đi tới đâu mà chỉ báo cáo lại với ngài toàn những thành tựu tốt đẹp.

Nào là mọi người đều đã nhận được tiền trợ cấp trên ti vi đủ cả, không sót một ai.

Nào là cảnh sát, công an, quân đội kết hợp với nhau thành đội quân đông đảo, quần thảo ngoài đường phạt không sai một người nào, từ những người vô gia cư lang thang cơ nhỡ tới dân thường, tới người không may ốm đau bệnh tật giữa mùa dịch bệnh… Tiền thu về bỏ vào túi ai không biết nhưng chắc chắn là nhiều người vẫn phải đặt may túi 20-30 gang để mà đựng tiền cướp bóc được của dân.

Nào là các bệnh viện bác sĩ, y tá hăng say làm việc không đòi hỏi gì, không ai xin nghỉ việc, một người chăm từ cả chục tới cả trăm bệnh nhân, dù không được ngân sách chống dịch hỗ trợ gì, toàn bộ người dân ở những thành phố, từ người già hấp hối tới trẻ sơ sinh, tới những người lao động mấy tháng ngồi ở nhà không ra ngoài đường cũng đều đã được lấy mẫu xét nghiệm.

Toàn thành phố không có dân đói, không có ai bị bỏ lại phía sau, các tổ trưởng tổ dân phố đã mang gạo và đồ cứu trợ đi giáp vòng phát hết cho mọi người rồi mà vẫn còn dư, mang về nhà chất cao như núi…, hết dịch mấy năm ăn cũng không hết.

Người chết vì COVID khoảng mười sáu, gần mười bảy ngàn gì đó [ tính tới 17/09/2021 ], nhưng ăn nhằm gì so với dân số 100 triệu người.

Dù đang trong thời kỳ phong tỏa cách ly, nhưng thu ngân sách nhà nước vào cuối Tháng Tám, 2021 vẫn tăng hơn 14% so với năm ngoái, đạt mốc 1 triệu tỷ đồng.

Tiền đóng góp quỹ phòng chống COVID của dân trong nước lẫn dân hải ngoại gởi về ủng hộ đã gần chạm mốc 9.000 tỷ đồng, các quỹ bảo hiểm kết dư tới 935.000 tỉ đồng [ Báo Thanh Niên ngày 17/08/2021 ], mà dân Việt Nam người ta giàu nên không ai thèm đi xin hoặc đi đòi cứu trợ. Dân giàu nước mạnh, ai nấy hạnh phúc ngồi trong nhà chờ hết dịch…

Không biết Đảng đi điều tra nhà dân khi nào, nhưng ngày 14/09/2021, báo nhà Đảng nói dân mình giàu lắm, ước tính còn hàng triệu tỷ khác nữa trong két sắt nhà dân Việt Nam [ Vietnamnet ngày 14/09/2021 ], và còn khoảng 500 tấn vàng đang được giấu trong nhà dân [ Báo Lao Động, ngày 26/02/2018 ]. Chắc nhà Đảng lấy mức trung bình trong nhà quan đảng rồi nhân lên với trăm triệu dân từ trẻ sơ sinh tới người thọ nhất cả nước nên ước tính ra được những con số đẹp mùi mẫn như vậy.

Việt Nam sắp sửa trở thành nước công nghiệp phát triển nhanh thế giới vào năm 2025, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, công nghệ 5G, 6G phủ khắp đất nước, Việt Nam trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao vào năm 2035 [ Tuổi Trẻ 02/09/2021 ] Việt Nam sẽ làm được những thứ mà không có nước nào khác trên địa cầu này làm được…

Tới nay, cả nước đã hoàn thành chỉ tiêu “mỗi người dân là một chiến sĩ; mỗi gia đình, tổ dân phố, khu phố, mỗi trường học là một pháo đài chống dịch”. Đất nước trong thời chiến, xe thồ từ năm 1950s đã được phục hồi lại chạy đầy đường. Mấy ngàn binh sĩ, quân y, vũ khí, trang thiết bị, mấy triệu liều Sinopharm đã được chi viện cho Miền Nam… Mấy tuần trước, Đảng hồ hởi lắm, trận này quyết giải phóng rốt ráo Miền Nam, không thắng không về…

Quan nhà Đảng ngoài Ba Đình phối hợp với nhau ăn ý, nhịp nhàng, mẹ hát con khen hay. Khúc nào hơi lộn xộn là Đảng cho người cắt tiệt nguồn tin khỏi các trang mạng, chỗ nào lỡ ăn nói hớ hênh, Đảng sai người làm việc ngày đêm gỡ bài, thậm chí sửa ngay trên các bài báo vừa đăng còn nóng hổi… Dân tình nào bép xép tố cáo Đảng trên các trang mạng xã hội, Đảng sai dân phòng tới dằn mặt, dọa bỏ cho chết đói, khỏi kêu…

Vậy mà không hiểu bên Bộ ngoại giao làm việc thế nào với các hãng thông tấn quốc tế, các Đại Sứ Quán, Lãnh Sự Quán và các cơ quan ngoại giao. Các tòa soạn báo đều có Ban Quốc Tế, mà không hiểu giao lưu, hợp tác kiểu gì với các tòa soạn báo quốc tế mà lại sơ sểnh để người ta dò ra bao nhiêu là thông tin thâm cung bí sử mà nhà Đảng cả nửa năm nay phải tung bao nhiêu lực lượng ngoài đời lẫn trên mạng vào cuộc để bưng bít… Đảng nghĩ phóng viên nước ngoài họ không có biết tiếng Việt hay sao đó, nên chắc họ không thể viết bài về mình…

Những tòa báo này, coi bộ từ xưa tới giờ cũng không có tư thù hay oán ghét gì Việt Nam cả. Có điều là họ không đọc báo nhà Đảng, không coi ti vi nhà Đảng, mà họ cử phóng viên đi lê la ngang cùng ngõ hẻm, phỏng vấn người này người nọ, rồi họ viết những gì họ nghe, họ thấy tận mắt thôi…

Ở đây tôi tạm tổng kết nguồn tin từ ba trong số hàng chục tờ báo nước ngoài có viết về tình hình ở Việt Nam trong mùa đại dịch.

Tờ Nikkei của Nhật Bổn, tờ The Guardian của Anh Quốc, và tờ Asia Times của Hong Kong.

Phần lớn các bản tin được các phóng viên của các tờ báo đề cập là về ở Sài Gòn.

Bản tin 1: Thành Phố Hồ Chí Minh ( TP.HCM ) có tỉ lệ người chết vì COVID cao nhất khu vực, ngày 11/09/2021 của Nikkei:

https://asia.nikkei.com/Spotlight/Coronavirus/Vietnam-s-Ho-Chi-Minh-City-has-highest-COVID-death-rate-in-region

Tờ báo này liệt kê ra một số “điểm sáng” nổi bật của Thành Hồ như sau:

— TP.HCM, trung tâm thương mại phía Nam của Việt Nam, có tỷ lệ tử vong do COVID-19 là 4,95%, cao hơn mức trung bình của cả nước và các thành phố cùng quy mô ở Đông Nam Á. [ tỉ lệ của Việt Nam nói chung là 2,6%, của Campuchia là 2,38%, Thái Lan là 1,34% ] theo Our World in Data. TP.HCM cũng chiếm khoảng 78% số ca tử vong do COVID của cả nước kể từ cuối Tháng Tư. Số ca mắc tích lũy [ tại thành phố ] chiếm khoảng 48,3% tổng số ca toàn quốc. Một thành viên tại Nghiên Cứu Y tế và Sức khỏe Quốc Gia Australia, nói với Nikkei Asia rằng “Chỉ có 5% các quốc gia và khu vực trên thế giới có tỷ lệ tử vong cao như vậy”.

Ông nói thêm: “Tôi nghĩ rằng đã có sự thiếu phối hợp trong hệ thống chăm sóc sức khỏe và thiếu các nguồn lực góp phần làm tăng số ca tử vong vốn đã có thể ngăn ngừa được”.

Tỷ lệ tử vong gia tăng đã khiến chính quyền phải triển khai lực lượng, bao gồm cả quân đội, tại TP.HCM kể từ ngày 23 Tháng Tám để thực thi các hạn chế nghiêm ngặt về COVID. 9 triệu cư dân của thành phố được yêu cầu “ở lại nơi họ ở” cho đến khi chính quyền kiểm soát được dịch.

Tờ báo cũng dành một đoạn mô tả lại cuộc đối thoại trực tuyến vào ngày 06/09/2021 của ông Phan Văn Mãi, trả lời các công dân đang đối mặt với tình trạng thiếu lương thực do tình trạng phong tỏa của thành phố. Nhiều người dân đã tỏ ra hết sức bức xúc trong sự kiện với những câu hỏi đã được đặt ra từ đầu mùa dịch như:

Các ông đã yêu cầu mọi người ở lại nơi họ đang ở, nhưng các ông lại không cung cấp thức ăn. Chúng tôi phải sống chỉ bằng cách hít thở không khí?“.

Tại sao các ca mới cứ tăng lên thay vì giảm đi? Các biện pháp hạn chế như vậy là có hiệu quả không? Nếu không, các ông sẽ làm gì?“.

Ông Mãi ơi, bao giờ mới đi làm được. Giờ tôi sắp chết đói“.

Một nguồn tin từ một quan chức cũng cho rằng: Họ không có lựa chọn nào khác ngoài việc âm thầm nới lỏng các quy định, từng bước, vì những hạn chế kéo dài có thể tạo ra bất ổn xã hội. Người nghèo có thể “xuống đường”.

Trong khi đó, các doanh nghiệp, bao gồm cả các nhà sản xuất nước ngoài hoạt động tại TP.HCM và các tỉnh lân cận, cho biết hoạt động của họ đã bị gián đoạn. Đại diện các công ty Hoa Kỳ, bao gồm nhà sản xuất chip Intel và công ty đồ thể thao Nike, đã bày tỏ quan ngại về khả năng duy trì hoạt động của họ tại Việt Nam tại cuộc gặp với Thủ Tướng Phạm Minh Chính ngày 04/09 tại Hà Nội. Tuy nhiên, ông Chính không có giải pháp nào mà chỉ trấn an họ: “Đây chỉ là những khó khăn tạm thời. Tôi đã giao các cơ quan liên quan nghiên cứu, xây dựng phương án khôi phục kinh tế để thích ứng an toàn với đại dịch trên tinh thần ‘sản xuất phải an toàn.’

Đối tác Châu Âu của nhóm doanh nghiệp Mỹ cũng bày tỏ lo lắng tương tự. Hôm Thứ Năm, các thành viên của EuroCham Việt Nam đã tổ chức một cuộc họp với chính phủ, Chủ Tịch Alain Cany nói với các quan chức, “Các thành viên của chúng tôi đang bị ảnh hưởng cực kỳ bởi các biện pháp phong tỏa hiện tại… đặc biệt là ở miền Nam của đất nước.” Chủ tịch Cany chỉ ra động thái dịch chuyển hoạt động của một số công ty ở Việt Nam sang nơi khác: “Dữ liệu của chúng tôi cho thấy cho đến nay gần 1/5 số công ty đã chuyển một số hoạt động sản xuất ra nước ngoài, với 16% nữa sẽ cân nhắc làm như vậy trong tương lai.

Tờ báo cũng nhấn mạnh rằng, TP.HCM đóng góp gần 30% [ 27,5% ] vào ngân sách nhà nước từ năm 2011 đến năm 2019… Nếu nền kinh tế của thành phố sụp đổ, hệ lụy đối với toàn quốc hẳn là khó có thể tưởng tượng được.

Trong một bài báo khác đăng vào ngày 03/09/2021, tờ Nikkei đã xếp Việt Nam ở vị trí cuối bảng Chỉ Số Phục Hồi sau COVID gồm 121 quốc gia ở các châu lục trên khắp thế giới, ( 121/121 ), và cũng là quốc gia được dự đoán có khả năng phục hồi kém nhất ở Đông Nam Á.

https://asia.nikkei.com/Spotlight/Coronavirus/COVID-Recovery-Index-Delta-strain-and-late-jabs-hold-ASEAN-back

Bản tin 2: “Cái đói là điều chúng tôi đọc được: Phong tỏa khiến nhiều người nghèo ở Việt Nam không có thức ăn”:

https://www.theguardian.com/global-development/2021/sep/08/hunger-was-something-we-read-about-lockdown-leaves-vietnams-poor-without-food

Việc phong tỏa ở Việt Nam khiến nhiều người không thể đi làm và đã khiến hàng chục ngàn người lâm vào cảnh đói. Nhiều người cho biết hai tháng nay họ đã sống trong tình trạng luôn thiếu cơm và thức ăn, đặc biệt là gia đình của các công nhân lao động và người lao động tự do, sống trong những khu nhà trọ chật hẹp. Với dân số di cư khổng lồ của thành phố, nhiều người trong số họ chưa đăng ký hộ khẩu hoặc tạm trú, và do đó họ trở nên “vô hình” đối với chính quyền.

Nhiều lao động đã đặt câu hỏi tại sao họ không thể tiếp cận với gói cứu trợ mà chính phủ đã hứa hẹn…

Nhiều người khác cũng lâm vào cảnh nợ nần chồng chất, con cái họ có thể phải bỏ học do không có thiết bị học trực tuyến, và không có đủ thức ăn. Chính phủ hứa sẽ cung cấp thức ăn cho tất cả mọi người và gia nhập quân đội để giúp cung cấp nguồn cung cấp cho những người có nhu cầu, nhưng rất nhiều người dân không nhận được gì. Tuần trước, báo chí Việt Nam đưa tin hơn 100 người dân ở một huyện đã biểu tình vì thiếu sự giúp đỡ.

Số liệu thống kê chính thức cho biết chỉ riêng tại TP.HCM đã có 3-4 triệu người rơi vào tình trạng khó khăn về tài chính do đại dịch.

Các tổ chức xã hội dân sự đang bị quá tải với hàng chục nghìn yêu cầu thực phẩm mỗi ngày và không thể đáp ứng đủ nhu cầu. Food Bank Vietnam, một doanh nghiệp xã hội do Nguyễn Tuấn Khôi, người cũng có công việc kinh doanh riêng, đang hỗ trợ 10.000 người mỗi ngày. Trang web và các kênh truyền thông xã hội của ông nhận được yêu cầu nhiều gấp đôi hoặc gấp ba lần.

Các con số bắt đầu tăng vào tháng trước, nhưng chúng đã tăng vọt trong hai tuần qua, Nguyễn Tuấn Khôi nói: “Đại dịch này đã ảnh hưởng đến khả năng phục hồi của mọi người. Việc đóng cửa hoàn toàn đã khiến nguồn cung cấp thực phẩm bị gián đoạn. Chúng tôi và các tổ chức từ thiện khác đang gặp khó khăn trong việc tiếp cận những người cần sự giúp đỡ. Nhu cầu là rất lớn”.

Tuấn cho biết là trong 20 năm làm từ thiện, anh chưa bao giờ trải qua chuyện như thế này. Ông nói: “Người Việt Nam đã trải qua những ngày khó khăn nhất trong vài tuần qua. Tôi chưa bao giờ thấy số lượng người chết và mất mát như vậy. Trước đại dịch, chúng ta có đói và nghèo, nhưng ít ra lương thực vẫn dễ dàng cho nhiều người. Tôi sinh ra sau chiến tranh, vì vậy những khó khăn xung quanh cái chết và cái đói là điều chúng tôi đã nghe và đọc trong sách. Giờ tôi mới hiểu được sự vất vả”.

Tổ chức từ thiện Saigon Children’s Charity, tổ chức giúp đỡ những thanh thiếu niên có hoàn cảnh khó khăn được học hành và đi làm, cũng bị cuốn theo nhu cầu mới này. Damien Roberts, giám đốc tổ chức từ thiện, nói: “Thông thường, chúng tôi đang xây dựng trường học, thực hiện những nhu cầu đặc biệt. Bây giờ 90% công việc của chúng tôi là cứu trợ COVID. Tình trạng đói đang rất lan rộng vào lúc này.

Tôi không biết con số nhưng chúng tôi đã giúp được 16.000 người trong tám tuần qua và chúng tôi hầu như vẫn chưa làm được gì.

Ứng dụng nhắn tin Zalo và SOSmap.net mỗi ứng dụng đưa tin hàng chục nghìn người có nhu cầu thực phẩm trên toàn thành phố.

Song song với nạn đói là hệ thống y tế trở nên quá tải. Các bệnh viện đang thiếu nhân sự, không đủ thuốc men, việc cung cấp ôxy chỉ cầm chừng. Các phương tiện truyền thông xã hội tràn ngập những câu chuyện về những người kêu cứu mà không được giúp đỡ, cũng như những hình ảnh và video đáng lo ngại về những người xếp hàng vào lò hỏa táng và những người nằm gục trên đường phố.

Bác sĩ Trần Hoàng Đăng Khoa, bác sĩ hồi sức tích cực của bệnh viện điều trị những ca COVID nặng nhất, phụ trách 14 bệnh nhân trong mỗi ca và đã kiệt sức. Ông nói, 700 giường luôn kín chỗ, mỗi ngày lại có thêm nhiều ca; một nửa trong số những người mà ông điều trị đã chết.

Ông nói: “Hệ thống y tế của chúng tôi không được chuẩn bị cho điều này. Chúng tôi thiếu mọi thứ – nhân viên, thuốc men và máy thở – nhưng tôi không biết phải đổ lỗi cho ai.

Tình hình hiện tại cũng phản ánh sự chậm trễ đối với chương trình tiêm chủng của Việt Nam, Theo Bộ Y Tế, tính đến ngày 01/09, Việt Nam đã tiếp nhận được 20 triệu liều vắc xin COVID-19. Chương trình bị điều hành bởi bộ máy hành chính cồng kềnh, dẫn đến sự chậm trễ.

Bản tin 3: Việt Nam hấp hối khi biến chủng Delta giáng một đòn mạnh…

Thời điểm này năm ngoái, Việt Nam là quốc gia đánh bại COVID-19 thế giới, đến mức nước này đã tặng khẩu trang và các thiết bị bảo vệ cá nhân ( PPE ) khác cho các quốc gia tiên tiến ở phương Tây bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch.

Nhưng tất cả đã thay đổi vào tháng 7 năm nay khi đất nước chuyển từ câu chuyện thành công của COVID sang câu chuyện Nguy Cấp do sự gia tăng của biến thể Delta gây ra.

Phần lớn TP.HCM, trung tâm kinh tế phía Nam, đã bị đóng cửa trong nhiều tháng và người dân chỉ được phép rời khỏi nhà vì những lý do đặc biệt.

Hoạt động kinh doanh trên khắp đất nước bị đình trệ, với việc công nhân không thể đi làm và các chủ doanh nghiệp và nhà máy buộc phải tiến hành kiểm tra nhân viên thường xuyên.

Tính đến ngày 6 Tháng Chín, Việt Nam đã ghi nhận hơn 530.000 ca nhiễm, 13.385 ca tử vong và tỷ lệ lây nhiễm hàng ngày tiếp tục tăng cao. Vào cuối Tháng Tám, Nikkei Asia đã xếp hạng Việt Nam ở vị trí cuối cùng, ở vị trí thứ 120 cùng với Thái Lan, trên Chỉ Số Phục Hồi COVID-19.

Phần lớn điều này càng trở nên trầm trọng hơn do tỷ lệ tiêm chủng thấp của Việt Nam, với chỉ 18% dân số được tiêm một mũi vắc xin và chỉ 2,8% được tiêm chủng đầy đủ – một trong những tỷ lệ thấp nhất ở Châu Á.

Giới quan sát đang chia rẽ về việc ai là người phải chịu trách nhiệm chính. Một số người cho rằng chính phủ đã chậm mua vắc xin vào đầu năm 2021 do chủ quan trước thành công trước đó trong việc ngăn chặn đại dịch. Cũng có những người khẳng định đó là do “Sự kết hợp giữa tinh thần phản kháng của người dân trong việc phản đối chích loại vắc xin do Trung Quốc sản xuất và mong muốn của chính phủ trong việc phát triển vắc xin sản xuất trong nước”.

Trong khi thừa nhận những sai lầm nhất định, chính phủ Việt Nam đã tìm cách đổ lỗi cho sự gia tăng đột biến mới nhất về các sự kiện nằm ngoài tầm kiểm soát của mình. “Các biến thể Delta đang phá hủy tất cả các thành tựu chống đại dịch,Bộ Trưởng Y Tế Việt Nam, Nguyễn Thanh Long, cho biết theo các báo cáo địa phương.

Khi tình trạng sức khỏe của nền kinh tế ngày càng xấu đi, các nhà đầu tư quốc tế lớn từ Samsung đến Nike có thể rời bỏ đất nước ra đi, các quan chức Việt Nam đã xoay chuyển, đổi từ chiến lược “không khoan nhượng” sang chiến lược “sống chung với COVID”.

Các cuộc tranh luận sôi nổi và đang diễn ra về việc làn sóng COVID đã làm xói mòn tính chính danh của Đảng Cộng Sản cầm quyền, là điều luôn khó đo lường ở một quốc gia không có khái niệm báo chí tự do là như thế nào.

Hình ảnh của Đảng xuất hiện nổi bật trong suốt năm 2020 khi thành công trong việc đưa cả quốc gia cùng nhau chống lại virus trên tinh thần đoàn kết. Tuy nhiên, bất đồng trong dân chúng nhằm chống lại chủ nghĩa độc tài của Đảng đã gia tăng trong thập kỷ qua, bao gồm cả trên mạng xã hội.

Có lẽ chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên khi điều tồi tệ nhất của đại dịch xảy ra ngay sau khi có sự thay đổi chính quyền trong vòng 6 năm tại đại hội toàn quốc của Đảng Cộng Sản vào Tháng Giêng. Ông Nguyễn Xuân Phúc trở thành chủ tịch nước, trong khi ông Phạm Minh Chính còn non kinh nghiệm đã lên kế vị chức thủ tướng [ inexperienced Pham Minh Chinh ].

Trong khi đó, nhiều quốc gia phát triển đã tặng Việt Nam hàng triệu liều vắc xin trong thời gian đại dịch: Các quốc gia Châu Âu trong đó có Anh, Đức, Ý và Ba Lan chỉ riêng trong Tháng Tám, đã viện trợ ít nhất 1,5 triệu vắc xin cho Việt Nam. Ngày 03/09, Đức cam kết viện trợ thêm 2,5 triệu vắc xin AstraZeneca cho Việt Nam.

Hoa Kỳ, đã cung cấp ít nhất sáu triệu vắc xin cho Việt Nam vào cuối Tháng Tám. Nhật Bản và Úc cũng đã tài trợ vắc xin cho Việt Nam. Việt Nam cũng là một trong những nước nhận liều lượng lớn hơn nhiều nước khác thông qua cơ chế COVAX, trong đó các quốc gia Hoa Kỳ và Châu Âu là nhà tài trợ chính.

Các hội hữu nghị Việt Nam và các nhóm cộng đồng địa phương – một số trong số đó do Đảng Cộng Sản Việt Nam kiểm soát – cũng đóng vai trò quan trọng trên khắp Châu Âu và Bắc Mỹ trong việc quyên góp tiền cho các nỗ lực cứu trợ.

Vậy là có hai Việt Nam… Một Việt Nam do Đảng tô vẽ lên, và một Việt Nam tự tạo nên hình ảnh của chính mình trong con mắt của cộng đồng quốc tế…

Cho dù những tờ báo trên đã đưa ra những cái nhìn trái chiều về hình ảnh của Việt Nam trong mùa đại dịch, so với báo chí chính thống Việt Nam…

Nhưng có những điểm tích cực người Việt Nam có thể tận dụng…

Chúng ta đang có nhiều cơ hội hơn để biết về thực trạng cũng như toàn cảnh của chính đất nước mình thông qua những bài báo như thế này… Dù thông tin bị kiểm duyệt trong nước, nhưng nếu chịu khó tìm kiếm, chúng ta vẫn có nhiều nguồn thông tin khác để tham chiếu.

Chúng ta cũng có nhiều cơ hội hơn để cung cấp cho thế giới những cơ hội để họ được biết về thực trạng của Việt Nam nếu chúng ta xây dựng được những cơ chế hợp tác trong khả năng của mình…

Và rõ ràng, trong thời đại ngày nay, các nguồn thông tin cho dù có bị kiểm duyệt khắc nghiệt như thế nào đi chăng nữa, thì nó không còn khả năng là nguồn thông tin độc quyền của bất cứ một bộ phận độc tài nào… Nó luôn có cách tìm được những con đường để ra thế giới bên ngoài… và xuất hiện trên những bản tin chính thống của các hãng thông tấn lớn, chứ không phải chỉ là những thông tin truyền miệng trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại…

Tương lai của nền tự do Việt Nam chắc chắn có phần đáng kể phụ thuộc vào việc có thêm nhiều nguồn thông tin đa chiều trên những phương tiện thông tin chính thống ở nước ngoài như thế này…

Có hai Việt Nam, và có một điều rất đáng để chúng ta suy ngẫm thêm…

Tác Giả: Từ Liên.

Phần 6/6: Giới thiệu sách: “THẤT BẠI VĨ ĐẠI – Sự Ra Đời Và Cái Chết Của Chủ Nghĩa Cộng Sản Trong Thế Kỷ XX” của Zbigniew Brzeziński. Tác Giả: Từ Liên.


Sự thất bại của chủ nghĩa cộng sản, xét đến cùng là về mặt trí tuệ. Nó đã bắt nguồn từ một nhận thức sai về lịch sử và về bản chất con người, nó không coi trọng nguyện vọng cơ bản của con người là tự do cá nhân, để tự biểu hiện về mặt nghệ thuật và trí tuệ.

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRUNG QUỐC và SỰ HẤP HỐI CỦA CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN TRÊN TOÀN THẾ GIỚI

Khác với học thuyết cộng sản tương đối “thuần khiết” được áp dụng ở Liên Xô ở giai đoạn đầu, khi tới Trung Quốc, trừ một vài giai đoạn hết sức ngắn ngủi ban đầu, thứ chủ nghĩa này sau đó chỉ còn duy trì được mỗi tên gọi mà bên trong đã chứa đựng một nội dung khác xa với ý nghĩa ban đầu. Chủ nghĩa cộng sản kiểu Trung Quốc, chỉ giữ lại phần tồi tệ nhất trong học thuyết của nó [ cách cai trị tập thể, đảng độc tài nắm trong tay toàn quyền kinh tế và quyền sinh sát với dân chúng, đồng hóa áp bức toàn bộ những sắc dân sống trên lãnh thổ của mình bằng một hệ tư tưởng đầy tham vọng và giáo điều ], đã kết hợp một cách hòa bình với tư tưởng Khổng Giáo của thời phong kiến, và kết hợp khéo léo với chủ nghĩa thương mại thực dụng kiểu Trung Hoa… Sự kết hợp này, đã khiến mô hình Trung Quốc trở nên tương đối độc lập với mô hình Liên Xô.

Mặt khác, nó cũng chứa đựng trong mình nhiều vấn đề tiềm ẩn giống như Liên Xô đã phải đối mặt vào những năm cuối cùng trước khi chủ nghĩa xã hội và Đảng Cộng Sản Liên Xô lâm vào khủng hoảng và sụp đổ toàn diện. Ba trong số những vấn đề nổi bật là:

  1. Quyền lực độc đoán của Đảng Cộng Sản bao trùm trên một khu vực rộng lớn [ Trung Quốc có diện tích lớn thứ ba trên thế giới ], trong đó có nhiều sắc dân chung sống, và không phải sắc dân nào cũng đồng ý với sự thống trị của Trung Cộng, không phải sắc dân nào cũng thừa nhận rằng nền văn hóa của “Hán Tộc” là “cao” hơn hay “đặc sắc” hơn văn hóa của họ. Điều này khiến cho xu hướng đòi quyền dân tộc tự quyết luôn luôn chờ đợi để bùng nổ.
  2. Đảng độc tài toàn trị trong một thời gian dài nắm quyền, đã lan tỏa những chân rết của nó tới những hang cùng ngõ hẻm của xã hội, trong mọi lĩnh vực. Những chân rết này được nuôi dưỡng bởi những quyền lực và lợi ích nhóm do Đảng ban phát, mà đứng đầu là các thành viên cao cấp của Đảng và thân hữu của họ. Điều này khiến một nhóm nhỏ người mạnh lên nhờ bóc lột và tham nhũng, trong khi phần lớn xã hội bị chèn ép và đối xử bất công. Những tiếng nói đòi hỏi nhân quyền và dân chủ chỉ cần có môi trường và hoàn cảnh là trỗi dậy mạnh mẽ.
  3. Vấn đề thứ hai là: Bài toán hóc búa chưa có lời giải đáp giữa khát khao phát triển kinh tế và đòi hỏi cải tổ chính trị, điều mà Liên Xô sau vài thập niên loay hoay vẫn chưa có câu trả lời thuyết phục cho chính họ.

Chủ nghĩa cộng sản kiểu Trung Quốc:

Những điều kiện của Trung Quốc và lịch sử của Trung Quốc khác xa với nước Nga, đã dẫn tới con đường xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Trung Quốc không diễn ra theo cùng một cách như ở Liên Xô… Trong khi nước Nga bước lên vũ đài của chủ nghĩa cộng sản từ một xã hội tư bản nửa phong kiến vào năm 1917, thì Trung Quốc đã có thời gian tiếp nhận một vài kinh nghiệm của các cuộc cách mạng xảy ra từ đầu thế kỷ XX. Có ba nhân vật đã được ghi lại trong quá trình dò đường này của Trung Quốc: Tôn Dật Tiên, Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông. Mỗi người trong ba người đó đều mượn những tư tưởng chính trị từ thế giới bên ngoài nhằm dựng lên một phong trào và một học thuyết với mục đích khôi phục sự vĩ đại của Trung Quốc trong quá khứ.

Tôn Dật Tiên / Sun Yat-sen / 孫中山, 孫逸仙, 孫文.
Tôn Dật Tiên / Sun Yat-sen / 孫中山, 孫逸仙, 孫文.

Cuộc cách mạng mang màu sắc Cộng Hòa năm 1911 của Tôn Dật Tiên là một ý định nhằm áp dụng vào điều kiện Trung Quốc những khái niệm của phương Tây như Chế Độ Lập Hiến, Chế Độ Cộng Hòa. Chủ nghĩa dân tộc của ông ta một phần cũng chịu ảnh hưởng sự thành công của Nhật trong việc áp dụng những thành tựu của phương Tây trong công nghiệp và trong tổ chức xã hội. Việc này cũng đã gặp nhiều khó khăn và phản đối trong giai đoạn đầu tiên. Tuy nhiên, nó cũng để lại những thành tựu nhất định.

Tưởng Giới Thạch / Chiang Kai-shek / 蔣中正, 蔣介石.
Tưởng Giới Thạch / Chiang Kai-shek / 蔣中正, 蔣介石.

Cuộc cách mạng của Tưởng Giới Thạch cũng là một mưu toan nhằm vận dụng những khái niệm hiện đại của phương Tây vào những điều kiện hỗn loạn của Trung Quốc. Tuy nhiên, Tưởng đã chọn kết hợp Chủ Nghĩa Dân Tộc với chủ nghĩa Marx thành một tình cảm thống nhất. Bản thân Tưởng cũng được Liên Xô huấn luyện và cũng đã một thời cộng tác với những người cộng sản Trung Quốc trong cuộc đấu tranh cho một nước Trung Hoa mới.

Sự hợp tác đó chấm dứt năm 1927 với sự thất bại của cái gọi là Mặt Trận Thống Nhất, mở đầu cho gần hai mươi năm liên tục đấu tranh với những người cộng sản.

Mao Trạch Đông / Mao Zedong / 毛泽东.
Mao Trạch Đông / Mao Zedong / 毛泽东.

Sự thất bại của Tưởng ở Đại Lục mở đường cho một lực lượng khác nổi lên thay thế. Phong trào mới này đã động viên được dân chúng đông đảo ở Đại Lục nhờ vào việc họ có thể kết hợp một cách khéo léo những thất vọng, cả về mặt dân tộc lẫn xã hội của nước Trung Hoa cận đại. Phong trào đó được xác định rõ ràng hơn về mặt học thuyết, và được xây dựng trên cơ sở một tổ chức chính trị có kỷ luật và hiệu quả hơn. Đó là phong trào được cộng sản và Hồng Quân đứng đầu là nhà Marxist Mao Trạch Đông lãnh đạo, từ giữa những năm 1930s với tên gọi cuộc Vạn Lý Trường Chinh.

Marx Lenin Stalin Mao.
Marx Lenin Stalin Mao.

Khi Đại Hội Đảng Cộng Sản Trung Quốc Lần Thứ 7 diễn ra ở tổng hành dinh Hồng Quân tại Diên An cuối mùa xuân năm 1945, khoảng 4 năm trước khi cộng sản Trung Quốc giành được thắng lợi cuối cùng, sự đóng góp về hệ tư tưởng của Mao đã được hoan nghênh như là “tư tưởng Mao Trạch Đông” và được nâng lên tầm cỡ những nguyên tắc chỉ đạo Đảng và được coi là sự phát triển tiếp theo của chủ nghĩa Marx-Lenin-Stalin. Hành động đó biểu lộ không những tính kiêu ngạo to lớn về mặt tri thức của Mao mà còn là sự tự tin về mặt chính trị của những người cộng sản thế hệ đầu của Trung Quốc.

Điểm khác biệt giữa những nhà lãnh đạo Đảng Cộng Sản ở Nga và ở Trung Quốc thể hiện ở một số điểm sau:

Những người đi tìm sự đổi mới cho Trung Quốc là những người thấm nhuần lịch sử của đất nước, và đặc biệt là tư tưởng Khổng Giáo, trong đó nhấn mạnh kỷ luật và sự cai trị thường trực bởi một giai cấp quan lại vượt trội hơn hẳn về mặt đạo đức và tinh thần, đối với toàn bộ dân chúng trên lãnh thổ Trung Hoa [ Trong khi đó, điều này không được thừa nhận rõ ràng ở Liên Xô ].

Điều quan trọng hơn là, với tư cách những người thừa kế nền văn minh cổ với vài ngàn năm của Trung Quốc, họ có lòng tự tin về tri thức và văn hóa để tạo ra kinh nghiệm cách mạng của chính họ và vạch ra chiến lược của chính họ. Họ đã thực hiện một cuộc tiến công cách mạng và đã giành được thắng lợi hoàn toàn vào năm 1949.

Đây là một sự trái ngược hoàn toàn với kinh nghiệm của những người lãnh đạo Liên Xô cũng như những người đồng chí Đông Âu phụ thuộc vào Liên Xô. Phần lớn những người Đông Âu xem sự thống trị của Nga như là một sự thụt lùi về mặt văn hóa.

Những điều này được kết hợp một cách vá víu với học thuyết cộng sản và kinh nghiệm trước đây của cộng sản Liên Xô, đã tạo ra bước khởi đầu cho những cố gắng đầu tiên nhằm xây dựng lại Trung Quốc. Tuy nhiên, sau ba cuộc thử nghiệm to lớn của Mao ( trong đó cái giá phải trả cho hai cuộc thử nghiệm là hết sức đắt ) để đưa Trung Quốc đi theo mô hình của Liên Xô nhưng không thành công. Thêm vào đó, sự nhận thức dần dần về thất bại của mô hình cộng sản chính thống, những người kế nhiệm Mao đã “thức tỉnh” và quyết tâm lớn hơn trong việc tạo ra một học thuyết cộng sản riêng kiểu Trung Quốc nhằm lấp bỏ khoảng cách lịch sử rộng lớn và đầy bất lợi cho Trung Quốc trong bối cảnh mới của thế giới. Hình ảnh tiêu biểu khởi xướng cho sự thức tỉnh này là Đặng Tiểu Bình.

Đặng Tiểu Bình / Deng Xiaoping / 邓小平.
Đặng Tiểu Bình / Deng Xiaoping / 邓小平.

Điểm then chốt tạo ra sự khác biệt trong mô hình riêng này của Trung Quốc được tìm thấy trong truyền thống văn hóa lịch sử của họ. Nền văn hóa phong kiến lâu đời của Trung Hoa với những phiên bản Nho Giáo khác nhau làm trụ cột, đã chia sẻ những điểm chung quan trọng với học thuyết của chủ nghĩa cộng sản. Tư tưởng nhà nước với một vị hoàng đế tối cao thống trị, và được thờ phụng tương đương với những vị thần linh, cộng với việc coi người dân như những thần dân được cai trị trực tiếp bởi một bộ máy quan lại quan liêu và hách dịch là điều đã được chấp nhận hàng ngàn năm trong lịch sử Trung Hoa. Trái với Đông Âu bác bỏ một cách tự nhiên chủ nghĩa cộng sản, Trung Quốc chấp nhận một cách tự nhiên chủ nghĩa cộng sản do những truyền thống và giá trị lâu đời của đất nước đã hun đúc.

Cũng khác với những đồng chí trong khối Xô Viết, sự hấp dẫn về hệ tư tưởng cộng sản kết hợp với Khổng Giáo của Trung Quốc đã hấp dẫn dân chúng của họ không phải chỉ vì họ đã đánh trúng vào tâm lý của quần chúng nông dân đang khao khát về ruộng đất và những công nhân đang bất mãn với sự bóc lột của giới chủ công nghiệp trong giai đoạn đầu tiên của nền công nghiệp, mà còn do họ biết khoét sâu vào những tình cảm sâu sắc về lòng yêu nước đã bị xúc phạm và rằng Trung Quốc đã bị làm nhục bởi những đế quốc phương Tây trong hàng trăm năm, rồi lại tiếp tục với việc Nhật xâm lược Trung Quốc. Những điều đó đã kích thích nhiều người Trung Quốc vốn tự hào về nền văn hóa của mình có những tình cảm bất bình mãnh liệt với cả những người nước ngoài đáng ghét và những người lãnh đạo của họ đầy quyền uy nhưng thoái hóa và bất lực.

Sự tài tình của Chủ nghĩa cộng sản Trung Quốc là họ đã có thể pha trộn hai cái đó thành một công thức, trong đó chủ nghĩa yêu nước tự giác và chủ nghĩa cộng sản không phải là những mệnh đề loại trừ lẫn nhau. Như vậy là, đối với nhiều người Trung Quốc, thắng lợi của cộng sản cũng đồng thời tiêu biểu cho sự giải phóng dân tộc khỏi sự thống trị đáng căm ghét của ngoại bang. Trong khi đó, ở Đông Âu do Liên Xô thống trị, nơi mà đối với nhiều người, chủ nghĩa cộng sản lại có nghĩa là họ phải phục tùng quyền lực của “nước ngoài”.

Điều đó đã dẫn tới thực tế: Trong mỗi giai đoạn tiếp nối nhau, chính sách của cộng sản Trung Quốc ngày càng ít bị chi phối bởi những giáo huấn hệ tư tưởng chung các nước xã hội chủ nghĩa khác, đặc biệt là của Liên Xô, và ngày càng chịu ảnh hưởng nhiều hơn của ý đồ vận dụng học thuyết đó vào những điều kiện riêng biệt của Trung Quốc, đặc trên nền tảng của những truyền thống đã có, và những nhu cầu của dân tộc đã được xác định một cách thực dụng.

Ít người phương Tây có thể đánh giá được đầy đủ khoảng cách đã phát triển trong thế kỷ XIX giữa một bên là cảm nhận của người Trung Quốc về nền văn minh độc đáo, cao hơn hẳn về mặt văn hóa ( họ cho là như vậy ) và bên kia là ý thức của người Trung Quốc về sự yếu kém của họ khi đối diện với những sự làm nhục mà những cường quốc nước ngoài đã cố ý gây ra cho họ.

Giai đoạn Trung Quốc bắt chước Liên Xô như vậy là rất ngắn ngủi. Trong những năm đầu sau thắng lợi của cách mạng, Trung Quốc cũng bắt chước công cuộc công nghiệp hóa đầu tiên của Liên Xô do Nhà Nước chỉ đạo ( Đại Nhảy Vọt ). Đất nước lao vào một chương trình công nghiệp hóa đầy tham vọng với một lòng tin được đơn giản hóa đến cao độ về những lợi ích kỳ diệu về mặt xã hội của công nghiệp nặng. Để đạt được mục đích đó, viện trợ và kỹ thuật của Liên Xô đã được nhập khẩu càng nhanh càng tốt, y như kế hoạch 5 năm lần đầu tiên thời Stalin. Cố vấn Liên Xô tràn ngập đất nước, sinh viên Trung Quốc lũ lượt kéo sang các trường đại học Xô Viết, và những thành tựu của Liên Xô được tán dương trên báo chí Trung Quốc. Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, kinh nghiệm của Liên Xô đã bị thừa nhận là đã phá sản tại Trung Quốc, trong Hội Nghị Trung Ương Bất Thường Lần Thứ Hai của Đại Hội Đảng Lần Thứ 8 vào Tháng Năm, 1958.

Để biện minh cho sự thất bại đó, Mao cần đến một giải pháp tạm thời khác. Tháng Chín, 1956, những người lãnh đạo Đảng Cộng Sản Trung Quốc tuyên bố một cách tùy tiện tại Hội Nghị Trung Ương Lần Thứ Nhất của Đại Hội Đảng Lần Thứ 8, rằng Trung Quốc đã hoàn thành những mục tiêu vĩ đại của Đại Nhảy Vọt, và đã bước vào “giai đoạn phát triển” trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những cố gắng cuồng nhiệt và tàn bạo nhằm cấu trúc lại nông dân Trung Quốc thành cái gọi là CÔNG XÃ NHÂN DÂN đã tạo ra một tai họa với quy mô to lớn. Hàng triệu nông dân, ước chừng là 27 triệu, đã chết do phải di chuyển nơi ở, do bị đàn áp bởi bạo lực và nạn đói.

Đến cuối những năm 1950, khi mối quan hệ giữa Trung Quốc và Liên Xô rạn nứt mọi viện trợ của Liên Xô đã chấm dứt, chuyên gia Liên Xô đột ngột rút về nước, những phụ tùng thay thế của Liên Xô không có nữa, Trung Quốc đột nhiên ý thức được mình phải hoàn toàn dựa vào bản thân mình.

Từ giữa những năm 1960, trước sự chỉ trích từ bên ngoài của Liên Xô và một số mầm mống nổi dậy đã xuất hiện ở trong nước, Mao đã tiến hành một công cuộc “thanh lọc” bị gọi chệch đi là Cách Mạng Văn Hóa. Bạo lực bao trùm lên toàn bộ Trung Quốc. Mao già nua và bất lực thúc giục những người dưới quyền tiêu diệt lẫn nhau trong một quá trình có ngụ ý là “thay máu” cách mạng, là những cuộc đấu tranh trong nội bộ Đảng nhằm chống lại bọn quan liêu cầm quyền và những truyền thống của quá khứ. Kinh nghiệm Liên Xô lúc này bị tố cáo thẳng thừng và bị coi là chủ nghĩa xét lại phản cách mạng.

Kết quả là, từ 1966 đến giữa những năm 1970, Trung Quốc đã trải qua một loạt các cuộc thanh trừng tàn bạo, giết hại hàng trăm nghìn cán bộ Đảng và những chỉ huy quân sự ( trong đó có một số nhân vật của cuộc trường chinh và của cách mạng Trung Quốc ) rất được kính trọng, bắt giam và đưa đi đày ở các trại lao động cưỡng bức hàng triệu người. Tuy rằng số liệu chính xác về sử dụng bạo lực đó không bao giờ biết được, thời kỳ đó về nhiều mặt có thể so sánh với những năm tồi tệ trong thời kỳ khủng bố và thanh trừng của Stalin. Bạo lực tuy được Mao và một số người cộng sự chủ chốt khuyến khích, nhưng cũng còn được nuôi dưỡng bởi những cuộc đấu tranh không ngừng tăng lên nhằm giành quyền kế tục chính trị, y như truyền thống trong những triều đại phong kiến Trung Quốc xưa kia.

Phải mất nhiều năm với hoạt động kiên nhẫn của những người cộng sản Trung Quốc, trong đó có Chu Ân Lai, người ta mới thấy lại sự khôi phục cho những người lãnh đạo chóp bu trước đây còn sống sót, như Đặng Tiểu Bình, và sự phá hoại khủng khiếp của cuộc Cách Mạng Văn Hóa mới được chế ngự. Và phải đến cái chết của Mao vào Tháng Chín, 1976, quá trình bình thường hóa xã hội mới quay trở lại.

Chu Ân Lai / Zhou Enlai / 周恩來.
Chu Ân Lai / Zhou Enlai / 周恩來.

Vào Đại Hội Đảng Lần Thứ 12 ( Tháng Chín, 1982 ), Đặng chính thức đưa ra một cách tiếp cận mới nhằm tìm ra mục tiêu khôi phục dân tộc và uy tín quốc tế cho Trung Quốc. Được công bố vào cuối những năm 1970 và được miêu tả như là “bốn hiện đại hóa” ( hiện đại hóa nông nghiệp, hiện đại hóa công nghiệp, hiện đại hóa khoa học kỹ thuật, hiện đại hóa quốc phòng ), chương trình đó hướng tới sự mở cửa thực dụng với toàn thể ra thế giới phương Tây và làm nảy sinh nguy cơ xáo trộn tính chính thống của hệ tư tưởng ở trong nước. Quá trình mới đó cũng bao gồm việc xây dựng vị trí quốc tế của Trung Quốc: Khôi phục toàn bộ các quan hệ với Mỹ cuối năm 1978, phục hồi quan hệ về kinh tế, chính trị thương mại giữa Trung Quốc và Nhật Bản, cũng đồng thời được coi là sự chia sẻ lo sợ chung về chủ nghĩa bành trướng của Liên Xô.

Trong các cuộc họp Đảng, Đặng luôn ra vẻ trung thành với những lời dạy của Mao. Năm 1979, ông ta nói rằng bất cứ người công dân Trung Quốc nào cũng đều phải tuân theo “bốn nguyên tắc”; đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, chuyên chính vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng, chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Mao Trạch Đông. Tuy nhiên, trên thực tế, dưới chiêu bài tiếp tục đường lối của Mao, Đặng đã chủ tâm xét lại đường lối đã định của Đảng, và trong quá trình đó, ông ta phải vượt qua một loạt các trở ngại to lớn về chính trị, về cả mặt học thuyết lẫn bộ máy cai trị quan liêu.

Đặng đã tỏ ra rất thận trọng và nhẫn nại trong việc tìm cách loại bỏ từ từ những lãnh đạo lớn tuổi thuộc thế hệ cũ, nặng lòng sùng bái Mao và hệ tư tưởng Marxist. Trong một chừng mực nào đó, ông ta đã làm nảy sinh các mầm mống của phong trào dân chủ nổi lên trong giới sinh viên và thanh niên. Tuy nhiên, cứ mỗi khi ông ta gặp sự phản kháng của các lãnh đạo thế hệ cũ và tầng lớp vẫn đang hưởng lợi từ việc duy trì trật tự cũ, ông ta lại sẵn lòng hy sinh những nhóm người khởi xướng những phong trào dân chủ này để làm hài lòng bộ máy của mình, để đảm bảo những làn sóng giận dữ của họ không trào dâng và xô đổ bức tường đổi mới mà ông ta đang xây dựng.

Ngay từ đầu năm 1978, hoạt động đó đã thể hiện qua những cuộc biểu tình của quần chúng và qua những người dán báo đại tự trên “bức tường dân chủ” nổi tiếng, không xa cấm thành ở Bắc Kinh. Một khẩu hiệu được dán bởi một người lãnh đạo sinh viên là Ngụy Kinh Sinh đã nói lên được ý muốn quan trọng của những người chống đối: “Không có dân chủ, không có hiện đại hóa”. Đặng đã ban cho Ngụy Kinh Sinh được hưởng 15 năm tù vì mong muốn có được “hiện đại hóa thứ năm” ( tức là đòi dân chủ hóa ). Đối với Đặng, cải cách không có nghĩa là ông ta hoặc Đảng Cộng Sản phải từ bỏ quyền lực.

Ngụy Kinh Sinh / Wei Jingsheng / 魏京生.
Ngụy Kinh Sinh / Wei Jingsheng / 魏京生.

Công cuộc cải cách của Đặng đòi hỏi không những phải trẻ hóa đội ngũ lãnh đạo, mà còn cả sự kế tục bản thân Đặng một cách có trật tự. Để bảo đảm cho một sự quá độ như vậy thì những người lãnh đạo cao nhất trước hết phải củng cố quyền lực của họ, gạt bỏ mọi đối thủ hiện có hoặc tiềm năng, nắm chắc tình hình cũng như chỉ định và hỗ trợ cho người kế nhiệm. Đó là trung tâm chương trình hành động của Đặng từ đầu những năm 1980. Nhờ sự khéo léo đó, ông ta dọn đường chuẩn bị cho những người kế nhiệm mình leo lên những vị trí cao nhất, trong đó có Hồ Diệu Bang.

Hồ Diệu Bang / Hu Yaobang / 胡耀邦.
Hồ Diệu Bang / Hu Yaobang / 胡耀邦.

Cũng như Gorbachev, Hồ Diệu Bang đã úp mở quan điểm cho rằng những thay đổi chính trị cơ bản là cần thiết và chúng phải được tiến hành song song với những thay đổi về kinh tế “bốn hiện đại hóa”. Bởi vì chương trình kinh tế hướng về sự mở rộng phi tập trung hóa, thì sự thay đổi về chính trị có thể dẫn tới một sự phân tán quyền lực chính trị. Tuy vậy, khi cuộc thảo luận đi đến vấn đề vai trò của Đảng, thì tác động phối hợp của lợi ích chính trị to lớn, của hệ tư tưởng giáo điều, kết hợp với thiên hướng đặc biệt của tất cả các nhà lãnh đạo cộng sản tự cho mình là những người duy nhất nhận thức được đúng đắn thực tế phức tạp xung quanh mình, lại làm xuất hiện trở lại sự khẳng định dứt khoát là vai trò lãnh đạo của Đảng cần được tiếp tục, có nghĩa là “dân chủ tập trung”, một thuật ngữ mà Lenin cố ý dùng sai để nói về sự phục tùng ngu đần [ Trang 162 ].

Điều đó, đến lượt nó, lại đặt ra câu hỏi về giới hạn của sự thay đổi, vấn đề đâu là ranh giới đích thực giữa cải cách kinh tế và cải cách chính trị, vẫn chưa được giải quyết. Gặp phải nhiều sự chống đống của những quan chức Đảng trung thành với tư tưởng cũ, Hồ Diệu Bang bị ép phải từ chức vào năm 1987.

Là một người khôn ngoan, Đặng đã tìm ra một yếu tố mới để thêm vào công thức “Đổi Mới” của mình, ông ta đã kết hợp thêm truyền thống “thương mại thực dụng” của các thương nhân Trung Quốc vào công thức của mình, do đó đã lái được sự chú ý của nhiều người qua vấn đề kinh tế. Trong đó phải kể đến công cuộc việc phi tập thể hóa và giải thể hóa công xã dần dần trong nền nông nghiệp Trung Quốc đã đẩy nhanh năng suất lao động ở khu vực nông thôn một cách bất ngờ. Quả vậy, qua vài năm, Trung Quốc đã biến từ một nước thuần túy nhập lương thực thành một nước có thể xuất khẩu lương thực – hoàn toàn trái với nước cộng sản láng giềng Liên Xô. Điều này đã khiến cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc có lý do để hài lòng và tin tưởng vào tiến trình hành động của mình.

Nhưng sự cải cách này cũng đem lại một vài hậu quả sâu xa về ý thức hệ. Khi nhiều người Trung Quốc đã thoát dần ra khỏi cái khuôn khổ chủ nghĩa cộng sản được nhào nặn bằng sự phát triển ý thức hệ và bắt đầu quan tâm đến việc bán sản phẩm tự do trên thị trường mở rộng với giá cả được quyết định bởi quy luật cung cầu, nó tạo ra nguy cơ làm suy yếu sự kiểm soát trực tiếp của Đảng đối với một dân tộc quá đông – dù rằng có thuận lợi lớn cho nền kinh tế Trung Quốc. Nguy cơ này, lại cảnh tỉnh những người cộng sản, khiến họ phải xây dựng những hệ thống tường rào khác để bảo vệ cho quyền lợi của mình.

Đến năm 1984, chính quyền của Đặng lại mở cửa cho những xí nghiệp tư nhân quy mô nhỏ, nhất là trong lĩnh vực tiêu dùng thiết yếu. Một khi đã tạo ra việc mở cửa này thì khuynh hướng văn hóa của xã hội Trung Quốc đối với sáng kiến của người phụ trách xí nghiệp nhanh chóng được thể hiện. Theo một báo cáo của CIA đệ trình lên Quốc hội Mỹ vào Tháng Tư, 1988 thì 300.000 xí nghiệp như thế, cũng như thêm 20 triệu cơ sở kinh doanh một người hay một gia đình, đã ra đời năm 1987.

Vào đầu những năm 1980, Trung Quốc đã lập nhiều cái gọi là đặc khu kinh tế trong các vùng duyên hải Trung Quốc, đặc biệt là Thẩm Quyến, Sán Đầu, Chu Hải và Hạ Môn để thu hút đầu tư nước ngoài. Sự có mặt của nước ngoài và hoạt động kinh tế trong các vùng này thực tế là tạo ra một loạt ốc đảo tư bản chủ nghĩa bên trong nền kinh tế Trung Quốc.

Năm 1987, xuất khẩu của Trung Quốc tăng vụt lên 25% và ngoại thương Trung Quốc đạt đến mức đáng kính nể là 80 tỷ, gấp 4 lần mức năm 1978.

Đồng thời, Trung Quốc đã gởi số tương đối lớn những sinh viên có khả năng – và trong nhiều trường hợp, có những liên hệ thân thích về phương diện chính trị – ra nước ngoài học tập. Kết quả là một sự tổn thất không tránh khỏi trong việc kiểm soát trực tiếp ý thức hệ đã được thừa nhận – dù rằng với đôi chút miễn cưỡng chính thức và có lúc căng thẳng – nhằm thu được lợi ích từ các nước phương Tây tiên tiến hơn về công nghệ và khoa học. Nổi bật nhất về phương diện này là việc rất nhiều sinh viên như thế đã được gửi sang Hoa Kỳ, kẻ thù tư tưởng của Trung Quốc trong thời gian trước kia. Người ta đã ước lượng rằng vào năm 1987 có khoảng 27 nghìn sinh viên Trung Quốc đang học tập tại các trường đại học Mỹ, so với số ít ỏi sinh viên từ Liên Xô. Năm 1988, trường Đại Học Harvard cho biết rằng trường Đại Học Bắc Kinh đã trở thành một trong 10 trường đứng hàng đầu thế giới về cung cấp sinh viên đối với các chương trình đào tạo của trường Harvard [ Trang 168 ].

Tuy nhiên, những cải cách như thế không phải là không đau đớn. Khoảng cách giàu nghèo ở Trung Quốc tăng nhanh do việc thâu tóm đất đai nông nghiệp. Quan trọng hơn, phần lớn những người được trao quyền để mở rộng làm ăn trong những lĩnh vực mới và trên quy mô lớn cũng đều là người của các quan chức Đảng và bà con họ hàng của họ. Điều này càng củng cố sự ưu việt và tính hợp pháp của Đảng, khiến cho bất kỳ một nỗ lực cải tổ nào cũng trở nên khó khăn, do sự đụng chạm quyền và lợi ích quá lớn lao. Cuối cùng thì, những sự phát triển của các thành phần được gọi là “tư bản đỏ” này lại trở thành một cánh tay nối dài cho quyền lực của Đảng. Nó đưa thêm vào nhiều lý do khiến xu hướng tập trung quyền lực của Đảng lại càng trở nên cần thiết đối với một bộ phận lớn đảng viên và những người bà con thân thích của họ.

Tham nhũng cũng trở thành một vấn đề nhức nhối trong xã hội. Những bài tường thuật của báo chí Trung Quốc đã kể lại những vụ quan chức ăn cắp hàng triệu tới hàng tỷ đô la của nhà nước thông qua việc buôn lậu, lừa gạt và lợi dụng công khai trắng trợn. Ăn hối lộ để nhận được những hàng hóa hay vật tư khan hiếm, kể cả ở những người sản xuất và người tiêu dùng, đã trở thành một vấn đề lan tràn khắp nơi. Lạm dụng quyền lực chính trị và thiên vị trong phân phối tài nguyên kinh tế, chẳng hạn như chất đốt, xảy ra ở mọi nơi. Tháng Giêng, 1986, các lãnh đạo Đảng đã phát động một chiến dịch nhằm “chỉnh đốn Đảng”. Nhưng chừng nào các tài nguyên còn được phân phối không theo thị trường mà bằng ý chí của bộ máy Nhà Nước và Đảng thì các loại tham nhũng này vẫn còn tiếp tục diễn ra như thế.

Thêm vào đó, việc cùng tồn tại một nền kinh tế dựa trên việc hoạch định giá cả do trung ương đề ra một cách độc đoán với một nền kinh tế do thị trường điều khiển đã tạo ra một sự hỗn loạn lớn lao đối với những người làm kế hoạch Trung Quốc. Đối với những nhà quản lý ngày càng độc lập trong các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh; đối với các nhà kinh doanh tư nhân mới đang nổi lên và đối với các thương gia nước ngoài. Sự hỗn loạn trong hệ thống giá cả là nguồn gốc của những đình trệ trong nền kinh tế, và nó cũng góp phần vào những áp lực lạm phát nguy hiểm tiềm tàng. Làm thế nào giải quyết vấn đề này vẫn là đề tài nan giản, về mặt kinh tế cũng như về mặt học thuyết, mà có khả năng dẫn đến sự chia rẽ dữ dội giữa những nhà lãnh đạo Trung Quốc.

Chủ nghĩa cộng sản thương mại có thể thoái hóa thành chủ nghĩa cộng sản tham nhũng, mà sự tham nhũng trước hết lây lan và làm suy đồi tầng lớp quan chức trong Đảng, rồi sau cùng đưa nhanh đến một cuộc đàn áp và phản ứng tập trung về chính trị. Trong khi đó, chủ nghĩa đa nguyên kinh tế ngày càng nổi lên có thể sinh ra sự bất ổn trong dân chúng ngày càng lớn, và xuất hiện ngày càng nhiều những yêu cầu đòi dân chủ hơn.

Những vấn đề chính trị cũng được đặt ra, khi tình trạng khó xử không thể tránh được của việc phi tập trung hóa kinh tế lại được thiết lập trong một cái khung chính trị tập trung. Kinh tế phát triển chắc chắn xung đột với chính trị độc quyền. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải lựa chọn giữa thỏa hiệp về phi tập trung hóa hay nhượng bộ về kiểm soát chính trị. Nhượng bộ trên mặt trận chính trị rõ ràng có nghĩa là thu hẹp hơn nữa vai trò quản lý hành chính của Đảng. Trong khi đó, sự giới hạn hơn nữa vai trò của Đảng lại càng mở rộng cửa cho sự bất đồng quan điểm chính trị công khai.

Nét nổi bật của vấn đề này càng rõ ràng do sự xuất hiện các bất đồng như thế trong giới sinh viên và trí thức. Đối với các lãnh tụ của Đảng, những yêu cầu quá đáng về tự do hóa chính trị hơn nữa – được đẩy mạnh vào cuối những năm 1980, đã khiến họ phải xuống tay để bảo vệ quyền lợi mà họ chưa chuẩn bị để nới lỏng của mình – mà sự kiện Thiên An Môn là một trong những hậu quả đau buồn nhất và thể hiện sự bất lực trước bài toán kinh tế và chính trị hóc búa mà họ chưa thể giải đáp.

Mặc cho những điều kiện lịch sử – văn hóa đặc thù đã khiến cho Trung Quốc trở thành một trường hợp độc đáo khác xa với Liên Xô, giúp họ tận dụng được hoàn cảnh quốc tế, và vượt qua những khủng hoảng ban đầu, nhưng khi câu hỏi lớn nhất không có lời giản đáp lại quay trở lại với cùng một mệnh đề như ở Liên Xô và các quốc gia cộng sản Đông Âu, thì những nguyên nhân đã dẫn đến cuộc khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô… sẽ đặt chân lên ngưỡng cửa Trung Hoa, có lẽ chỉ còn là vấn đề thời gian…

SỰ HẤP HỐI CỦA CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN

Chủ nghĩa cộng sản xuất hiện ở Liên Xô, bị bác bỏ ở Đông Âu, và ngày càng trở thành thương mại hóa ở Trung Quốc, đã trở thành một hệ tư tưởng mất uy tín trên toàn thế giới. Chủ nghĩa Marxist-Leninist – sự thống nhất lý thuyết và hành động – đã không còn được tôn trọng ngay cả trong các đảng viên như là một sự chỉ dẫn có giá trị phổ quát cho việc kiến thiết lại xã hội trong thực tiễn.

Khắp thế giới, ngày nay, người ta cho chủ nghĩa cộng sản theo kiểu Xô Viết là đồng nghĩa với sự phát triển bị kìm hãm. Quan điểm này ngự trị ở cả hai phần của Châu Âu, ở Viễn Đông, ở Đông Nam Á và ở Bắc Mỹ. Nó cũng đang bắt đầu ảnh hưởng quan điểm của những người lãnh đạo dư luận ở Châu Mỹ Latin và Châu Phi.

Trong khi ở những phần phát triển hơn của thế giới, có rất ít người tìm thấy ở chủ nghĩa cộng sản một chương trình thích hợp cho tương lai, thì trong các quốc gia đang phát triển, những nhược điểm của mô hình phát triển Xô Viết được chứng minh hùng hồn bởi số phận của nhiều nước đã chọn đi theo nó.

Tình trạng nhất trí mới của thế giới nói lên một sự thay đổi có tính chất thời đại và kéo theo những hậu quả chính trị tai hại đối với chủ nghĩa cộng sản thế giới. Chủ nghĩa cộng sản đã từng có sức hấp dẫn trước hết đối với những người bất mãn do điều kiện không được ưu đãi hay do sự áp bức dân tộc, họ nhìn thấy ở đây một lối thoát đi đến quyền lực chính trị. Tình trạng nghèo khổ, lạc hậu và sự thù địch dân tộc tạo ra cơ sở thuận tiện nhất cho sức thu hút của nó. Tuy nhiên, thế giới đã thay đổi…

Sự suy sút về tầm quan trọng tư tưởng và về nhiệt tình chính trị của chủ nghĩa cộng sản có thể được nhìn thấy qua một cuộc họp tập hợp 93 Đảng Cộng Sản ở Praha vào giữa Tháng Tư, 1988 để chuẩn bị lần kỷ niệm thứ 30 cơ quan cộng sản quốc tế cuối cùng còn sót lại do Liên Xô nâng đỡ là tờ World Marxist Review ( tức tờ “Những Vấn Đề Hòa Bình Và Chủ Nghĩa Xã Hội” ). Cuộc họp gần như đã hoàn toàn rơi ra khỏi tầm chú ý của của thế giới, và chỉ được đăng với một vài nhận xét ngắn gọn và qua loa trong báo chí cộng sản.

Trong khi thế giới xích lại gần nhau và tiến hành hàng loạt những chương trình hợp tác, thì trong nội bộ các nước cộng sản lại diễn ra những cuộc đấu tranh liên miên với nhau. Sự sụp đổ về kỷ luật, sự sa sút về kinh tế, và sự phai nhạt về đạo đức, vốn gắn liền trực tiếp với sự xói mòn sức thu hút của Liên Xô, với tư cách một mẫu mực của chủ nghĩa xã hội đã là minh chứng hùng hồn cho việc lý thuyết cộng sản bị tan vỡ, thực tiễn cộng sản hiện nay bị xem là một thất bại trên khắp thế giới. Tất cả những điều này báo trước sự kết thúc sắp đến của chủ nghĩa cộng sản với tính cách một hiện tượng thế giới quan trọng vào đầu thế kỷ XX.

Xét về mặt lý thuyết, lẽ ra chủ nghĩa cộng sản phải thắng lợi nhiều nhất ở thế giới đã phát triển. Theo học thuyết kinh điển của Marx thì cách mạng xã hội chủ nghĩa lẽ ra phải xảy ra ở các nước phát triển như là hậu quả lịch sử tất yếu của cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản ở trong xã hội công nghiệp hóa. Vào năm 1961, Đảng Cộng Sản Liên Xô tuyên bố, trong cương lĩnh mới được thông qua của nó rằng “quá trình giải thể tất yếu đã trùm lên chủ nghĩa tư bản từ trên xuống dưới” và “cuộc tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản” đang diễn ra [ Trang 200 ].

Không những sự “chẩn đoán” này là sai lầm, mà vào khoảng cuối thế kỷ XX, một mệnh đề còn mạnh mẽ hơn nảy sinh: xã hội càng tiến lên thì Đảng Cộng Sản của nó càng trở thành ít cần thiết về mặt chính trị. Điều này làm đảo lộn cả học thuyết của chủ nghĩa cộng sản, trong khi nó thất bại ở nơi nó có hy vọng thành công, thì nó lại có vẻ thành công ở nơi mà theo học thuyết, các điều kiện xem ra là quá sớm về mặt lịch sử cho sự thành công của nó.

Điều ngược đời này cuối cùng dùng đã làm cho chủ nghĩa cộng sản mất luận điểm trung tâm của nó: Nó vẫn tự cho rằng nó đang đứng ở điểm cao nhất của lịch sử, rằng nó đại diện cho tương lai, và sự thắng lợi tất yếu của nó là biểu hiện sự tiến bộ của loài người. Lối đơn giản hóa quá đáng của nó đã không thể nào bao quát được tất cả những tình trạng phức tạp của cấu trúc xã hội của xã hội tiên tiến. Quan điểm mà Marx đưa ra về địa vị trung tâm của giai cấp vô sản công nghiệp cũng không trở thành hiện thực.

Học thuyết này cũng không thể cung cấp một sự hướng dẫn có ý nghĩa nào tới các chính sách xã hội mà mặc nhiên là cần phải tiếp thu những sự cải tiến sáng tạo của các khoa học mới và kỹ thuật cao. Toàn bộ khu vực cộng sản đã trở nên tụt hậu về kinh tế, lạc hậu về xã hội so với những phần khác của thế giới. Học thuyết của nó hoàn toàn không có tính sống động và không có khả năng thích nghi khi hoàn cảnh thay đổi. Đối diện với nền dân chủ của phương Tây là nơi những sự lựa chọn được tiến hành trên cơ sở tranh luận công khai, chủ nghĩa cộng sản đã không thể đối phó lại, và nó đã tự phơi bày sự không thích nghi rõ rệt của nó đối với thời hiện đại.

Sự thất bại của chủ nghĩa cộng sản, xét đến cùng là về mặt trí tuệ. Nó đã bắt nguồn từ một nhận thức sai về lịch sử và về bản chất con người, nó không coi trọng nguyện vọng cơ bản của con người là tự do cá nhân, để tự biểu hiện về mặt nghệ thuật và trí tuệ. Và trong thời đại của trí thức và thông tin đại chúng, con người ngày càng muốn có sự tự do lựa chọn về chính trị. Nó cũng coi nhẹ mối quan hệ hữu cơ giữa một bên là hiệu quả kinh tế với sáng kiến đổi mới và một bên khác là sự khao khát của cá nhân về phúc lợi vật chất. Như vậy chủ nghĩa cộng sản đã bóp nghẹt sự sáng tạo xã hội ngay cả khi họ tự nhận mình là chế độ xã hội sáng tạo và đổi mới nhất.

Nó đã đánh giá thấp vai trò các dân tộc và chủ nghĩa dân tộc, do đó mà đã bị choáng trước những cuộc xung đột dân tộc trong các nước xã hội cộng sản. Nó cũng không thấy được sự hấp dẫn của tôn giáo nên nó đã bị bất ngờ về sự chống đối ở Ba Lan dựa trên đạo Thiên Chúa và sự hồi sinh của Hồi Giáo ở ngay chính Liên Xô. Điều cuối cùng và cũng là quan trọng nhất, trong khi cuộc cách mạng kỹ thuật điện tử đã làm thay đổi bản chất sự phân phối quyền lực và cơ cấu xã hội ở các nước tư bản phát triển, thì những người theo chủ nghĩa Marx-Lenin vẫn còn bám lấy những khái niệm lỗi thời trong những giai đoạn đầu của cuộc cách mạng công nghiệp.

Thế kỷ XX như vậy đã không trở thành thế kỷ của chế độ cộng sản như những người cộng sản đã tuyên bố. Không những vậy, vào cuối thế kỷ XX, chủ nghĩa cộng sản ở khắp mọi nơi trên thế giới, không những lạc hậu với tư cách một cương lĩnh xã hội mà còn không cần thiết về mặt chính trị.

Một thứ chủ nghĩa thiếu sức sống, thiếu khả năng thích nghi, ích kỷ, và không còn cần thiết như vậy, khi gặp những biến động lớn từ bên ngoài ập tới hoặc từ bên trong trỗi dậy, thường rất có rất ít khả năng tự giải quyết hoặc chuyển hóa những khó khăn của mình thành cơ hội… Nó có thể khuyến khích tham vọng của những người đang được hưởng lợi ích to lớn từ hệ thống để những kẻ này dùng bạo lực đàn áp số đông còn lại trong một khoảng thời gian nào đó… Nhưng điều này chắc chắn là không thể kéo dài mãi mãi… Trong một thế giới liên tục đổi thay, chủ nghĩa cộng sản và những kẻ trục lợi từ hệ thống cai trị của chúng không thể trục lợi mãi dựa trên một thứ lý thuyết đã mục ruỗng và hấp hối…, trong khi đại bộ phận dân chúng ngoài kia đã và đang sống bằng những chất liệu của cuộc đời thực sống động, sáng tạo và không ngừng đổi thay… Vấn đề còn lại sẽ chỉ là thời gian, và việc con người có thể tận dụng được bao nhiêu những điều kiện của hiện tại để rút ngắn khoảng cách có thể tạo ra những đổi thay lớn lao này…

Tuy nhiên, một kịch bản đổi thay dẫn đến việc đưa chủ nghĩa cộng sản trở thành một di sản đáng buồn của lịch sử, sẽ khó có thể xảy ra nếu người ta dùng khoảng thời gian đó chỉ để chờ đợi. Khoảng thời gian đó cần phải dùng vào việc chuẩn bị cho một bộ phận lớn dân chúng sẵn sàng về mặt tri thức, hành động và những ý tưởng kiến tạo xã hội mới trên các lĩnh vực khác nhau… để có thể trong một chừng mực nào đó, lấp vào những khoảng trống cần thiết gồm nhiều những cái hố sâu đầy nguy hiểm mà chủ nghĩa cộng sản đã để lại trong suốt một thời gian dài.

Sự gặp gỡ đầy thảm họa của nhân loại với chủ nghĩa cộng sản trong thế kỷ XX đã cho chúng ta một bài học đau đớn nhưng cực kỳ quan trọng: Đó là sự xây dựng xã hội một cách ảo tưởng về căn bản đã xung đột với tính phức tạp của điều kiện con người, và sự sáng tạo xã hội chỉ nảy nở tốt nhất khi quyền lực chính trị bị thu hẹp. Bài học cơ bản đó cho thấy chính là nền dân chủ, chứ không phải chủ nghĩa cộng sản sẽ thống trị trong thế kỷ XXI [ Trang 258 ].

Tác Giả: Từ Liên.

Phần 5: Giới thiệu sách: “THẤT BẠI VĨ ĐẠI – Sự Ra Đời Và Cái Chết Của Chủ Nghĩa Cộng Sản Trong Thế Kỷ XX” của Zbigniew Brzeziński. Tác Giả: Từ Liên.

Do đó, để công bằng với Gorbachev, phải nói rằng ông ta không có gì nhiều để chọn lọc trong vấn đề hóc búa này. Từ bỏ cả chủ nghĩa Stalin lẫn chủ nghĩa Lenin có nghĩa là bác bỏ toàn bộ thời đại cộng sản.

Mikhail Sergeyevich Gorbachev.
Mikhail Sergeyevich Gorbachev Lãnh đạo tối cao Thứ Tám và Cuối Cùng của Liên Bang Sô Viết.

GORBACHEV VÀ NHỮNG DI SẢN CỦA THỜI KỲ TRƯỚC ĐÓ…

Di sản Stalin vẫn kéo dài không phải chỉ vì có lợi cho những người kế nhiệm cộng với những đồng chí thân cận và trung thành của họ. Nó tồn tại bởi vì nó đã trở thành một cơ cấu rộng lớn các đặc quyền chồng lên nhau, những quyền kiểm soát, ban thưởng, và lợi ích được ban phát. Nó kéo dài cũng còn vì quần chúng Xô Viết đông đảo mới được đô thị hóa chưa thể tiếp nhận một sự thay đổi khác, bởi vì, hàng nửa thế kỷ họ đã bị nhồi nhét quan điểm rằng, thời đại của họ tượng trưng cho một bước tiến khổng lồ của nhân loại.

Nhà sử học Leonid Batkin.
Nhà sử học Leonid Batkin.

Điều quan trọng hơn hết, chủ nghĩa Stalin vừa kéo dài, vừa trì trệ bởi vì NÓ LÀ MỘT HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MÀ KHÔNG CHỨA ĐỰNG MỘT ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ THỰC SỰ. Nhà sử học Leonid Batkin đã viết trong tờ báo Nedelya số 26 năm 1988, trong dịp có những cuộc tranh luận công khai nổ ra phản ứng lại di sản của Stalin: “…Hoạt động chính trị đã biến mất khỏi đời sống xã hội chúng ta từ cuối những năm 1920s… nó đã thôi không còn là một lĩnh vực hoạt động đặc biệt của con người, trong đó chứa đựng những sự khác biệt về giai cấp và lợi ích của các nhóm đặc thù, và chúng va chạm nhau, trong đó có sự so sánh trực tiếp, công khai các lập trường và những phương pháp được đề xuất để đưa chúng đến một sự thỏa hiệp năng động nào đó. Hoạt động chính trị biến mất và thế là mọi cái đều trở thành ‘chính trị’” [ Trang 34 ].

Ngay từ những năm sau cùng của thời đại Leonid Brezhnev, một cảm giác bất an đã phát triển trong một bộ phận của tầng lớp Xô Viết ưu tú. Một nỗi lo âu về suy thoái, về sự mục nát của hệ tư tưởng, về sự cằn cỗi của văn hóa đã nảy sinh. Nó không những bắt đầu thấm vào các giới trí thức mà còn lây sang cả một số thành viên của giới lãnh đạo chính trị, những người đang ngày càng lo lắng về khoảng cách đang tăng lên về sự lạc hậu giữa Liên Xô với Mỹ, đối thủ của họ.

Cũng theo lời của sử gia nói trên, “trong khi hệ thống Stalin tiêu diệt hàng triệu con người thì những người như Niels Bohr, Norbert Wiener, James Dewey Watson và Francis Harry Compton Crick đang làm việc. Trong khi hệ thống Brezhnev đưa đất nước chúng ta đến một tình trạng kém cỏi, thì thế giới phát triển tia laser, máy tính cá nhân và chứng kiến sự bùng nổ của cuộc cách mạng hậu công nghiệp” [ Trang 34 ].

Sự bi quan trong tầng lớp thượng lưu Xô Viết trái ngược sâu sắc với chủ nghĩa lạc quan khoác lác thời Khrushchev. Chỉ mới hai thập kỷ trước, bắt đầu năm 1958, Bí thư thứ nhất Nikita Khrushchev bắt đầu rêu rao công khai là Liên Xô sẽ sớm “chôn” nước Mỹ trong cuộc chạy đua kinh tế. Nhà lãnh đạo Xô Viết đã khẳng định trong nhiều dịp là đến đầu những năm 1970, “Liên Xô sẽ chiếm vị trí thứ nhất trên thế giới” về sản xuất kinh tế và điều đó “sẽ bảo đảm cho nhân dân chúng ta có những mức sống cao nhất trên thế giới”. Xã hội Xô Viết sẽ giàu hơn xã hội Mỹ, nền kinh tế của nó có hiệu quả hơn, và “tòa lâu đài tráng lệ của chủ nghĩa cộng sản” cho phép thiết lập “nguyên tắc phân phối theo nhu cầu”.

Những lời huênh hoang này còn được ghi vào cương lĩnh hành động của đảng cộng sản cầm quyền được thông qua năm 1961.

Trong thực tế, vào giữa những năm 60, những lời ba hoa đó đã chỉ đơn thuần là bức màn che giấu thực tế đáng buồn của sự trì trệ. Vào đầu thập niên 1970, kinh tế Liên Xô đã đạt tới mức bằng hơn một nửa tầm vóc kinh tế Mỹ. Nhưng trong những năm 1970, tỷ lệ tăng trưởng của kinh tế Liên Xô mất đà và kinh tế teo lại. Cái đất nước tự xem mình sẽ trở thành cường quốc kinh tế thứ nhất trên thế giới đã bị Nhật Bản vượt qua, nền kinh tế của nước này không những đã phát triển nhanh hơn Liên Xô mà về kỹ thuật còn tiến xa hơn nhiều. Thật vậy, khoảng cách bi đát về mặt kỹ thuật ngày càng mở rộng trở thành mối lo âu của những thành viên có nhận thức sâu sắc và trong cả giới thượng lưu Xô Viết. Giới thượng lưu đó nhận thấy rằng tiến bộ kỹ thuật cao đòi hỏi phải có cách tân khoa học công nghệ, và Liên Xô hiện nay hết sức lạc hậu, đặc biệt là trong việc áp dụng công nghệ vào kinh tế xã hội.

Nhiều số liệu công khai đã nói lên một thực tế bi đát. Đất nước tự khoe khoang là mũi nhọn sắc bén của sáng kiến đã lâm vào cảnh khó khăn trong những giai đoạn giữa của thời đại công nghệ hóa mà không thể vượt qua được. Dưới đây là một số dẫn chứng: Nền kinh tế Liên Xô không những tụt lại sau trong cuộc chạy đua công nghệ mà còn lãng phí lạ thường. Không có sự kích thích từ bên trong, chẳng những khu vực công nghiệp của Liên Xô mà cả những bản sao chép của nó ở Trung Âu đã trở thành những công trình bất hủ về tình trạng quan liêu, vô hiệu quả, và sự phung phí quá đáng tài nguyên mà không đem lại lợi ích gì cho sản xuất. Những điều này đã được liệt kê trong quyển sách “Điều Tra Kinh Tế, Đông và Tây” ( London, 1987 ), của nhà kinh tế học Ba Lan, giáo sư Jan Winiecki cho rằng những nền kinh tế theo kiểu Liên Xô, đã tiêu thụ năng lượng lớn hơn hai tới ba lần cho một đơn vị sản xuất so với nền kinh tế các nước phương Tây dựa trên thị trường.

Giáo sư Jan Winiecki nhà kinh tế học Ba Lan.
Giáo sư Jan Winiecki nhà kinh tế học Ba Lan.

Vào những năm 70, sự vô hiệu quả có tính kinh niên của hệ thống kinh tế tập trung, cùng với những điều kiện thời tiết khắc nghiệt đã buộc những nhà lãnh đạo Xô Viết hàng năm phải bỏ ra hàng tỷ đô la, ngoại tệ mạnh để nhập lương thực.

Theo báo cáo hàng năm của GATT ( The General Agreement on Tariffs and Trade ), Liên Xô tụt từ vị trí thứ 11 năm 1973 xuống vị trí thứ 15 năm 1985 trong xuất khẩu hàng công nghiệp và trong những năm giữa hai thời điểm đó đã bị Đài Loan, Hàn Quốc, Hong Kong và Thụy Sĩ vượt qua.

Xét một cách chung hơn, 40 năm sau khi Thế Chiến Thứ Hai kết thúc, xã hội Xô Viết vẫn còn phải thi hành một phần sự hạn chế về khẩu phần lương thực thực phẩm, và chịu đựng tình trạng thiếu liên tục hàng tiêu dùng. Đứng xếp hàng nhiều giờ hàng ngày là thường lệ đối với đại đa số các bà nội trợ ở các thành phố Liên Xô.

Nạn nghiện rượu tiếp tục lan tràn trong khi sự chăm sóc về y tế cho người dân Xô Viết bình thường nói chung xuống cấp. Tháng Ba, 1987, Bộ trưởng Bộ y tế Liên Xô mới được bổ nhiệm tiết lộ là một tỷ lệ lớn các bệnh viện Xô Viết không có nước nóng, cống rãnh không có đủ, thiếu điều kiện cải thiện vệ sinh. Không có gì lạ khi tuổi thọ của nam giới giảm rõ rệt từ 66 tuổi xuống 62 tuổi trong những năm Brezhnev cầm quyền so với 71,5 tuổi ở Mỹ, và tỷ lệ chết của trẻ em cao hơn 2,5 lần ở Mỹ, và như vậy là đặt Liên Xô vào vị trí thứ 50 trên thế giới, sau Barbados.

Nhóm duy nhất thực sự được miễn chịu đựng gian khổ đó là đám quan liêu của đảng cầm quyền, tầng lớp trên trong giới quân sự và quản lý. Được mua hàng ở những cửa hàng đặc biệt kín đáo, được chữa bệnh ở những bệnh viện tốt và ở những trung tâm nghỉ ngơi đặc biệt, lợi ích của chủ nghĩa xã hội chỉ được dành cho một giai cấp.

Một cuộc điều tra dư luận xã hội đáng chú ý được đăng trên báo “Tin tức Moskva” ngày 3/7/1988 cho thấy gần một nửa công chúng Xô Viết không nghĩ rằng họ sống trong “một xã hội công bằng. Nỗi bất bình lớn nhất chĩa về phía những đặc quyền của đám quan liêu bao cấp. Sự bực bội tăng lên theo thứ tự những đặc quyền đó bao gồm “những kiện hàng thực phẩm, những cửa hàng riêng”, “tự do có bất cứ cuốn sách nào, hoặc dự các buổi biểu diễn nghệ thuật, chiếu phim”, “những căn phòng trong các nhà cao cấp ở những khu sang trọng” và những “biệt thự của nhà nước”.

Sự bất bình xã hội đó đã tăng mạnh do thực tế là chất lượng sống của quần chúng rõ ràng là không được cải thiện trong một thời gian dài, và thậm chí còn tồi tệ hơn ở một số mặt quan trọng.

Đã đến lúc không còn có thể rêu rao và khoe khoang như vào những năm dưới thời Stalin rằng cuộc sống ở Liên Xô tốt hơn ở bất cứ nơi nào khác.

Năm 1987, một nhân vật lãnh đạo của Viện Hàn Lâm Khoa Học Liên Xô, Evgueni Afanasiev, đã giải thích “Xã hội Xô Viết sống trong một tình trạng cố ý tự cô lập về mặt trí tuệ, điều đó có nghĩa là nó không biết gì về phương Tây. Bản thân chúng ta không quan tâm gì đến Max Weber hoặc Emile Durkheim hay Sigmund Freud hoặc Arnold Joseph Toynbee, hoặc Oswald Arnold Gottfried Spengler. Đó không phải chỉ là những cái tên, mà còn có những thế giới, những hệ thống đa dạng của thế giới ở đằng sau những cái tên đó. Nếu một xã hội thiếu sự hiểu biết những thế giới đó, thì điều đơn giản là nó sẽ bị rơi khỏi thế kỷ XX, nó sẽ tự thấy mình đứng ngoài rìa những phát minh quan trọng nhất của thế kỷ” [ Trang 38 ].

Nhận thức về sự cần thiết phải thay đổi, phải cải cách và cải tiến lớn hơn, cuối cùng đã nổi lên với một quy mô chính trị to lớn sau khi Brezhnev chết năm 1982. Trong hơn hai thập kỷ bị lãng phí. Kết quả là những di sản cần phải vượt qua đã trở thành chồng chất lên nhau và thành một cản trở vô cùng đồ sộ.

Hệ thống Xô Viết tồn tại lúc này là sản phẩm xơ cứng của ba giai đoạn tạo thành gắn bó chặt chẽ với nhau và xếp chồng lên nhau:

  1. Dưới thời Lenin, đó là một đảng cực quyền với mục đích xây dựng lại xã hội.
  2. Dưới thời Stalin, đó là một nhà nước cực quyền đã hoàn toàn khống chế xã hội.
  3. Dưới thời Brezhnev, đó là một nhà nước hoàn toàn trì trệ bị thống trị bởi một đảng cực quyền đã bị thoái hóa.

Muốn cải tổ chế độ hiện hành thì phải tấn công vào ba người cầm đầu lịch sử của ba thời kỳ đó. Nhưng mà, làm như vậy sẽ có nguy cơ phải đạp đổ những thể chế cơ bản của quyền lực và làm nổi dậy sự chống đối của nhiều bộ phận nhân dân Xô Viết mà về tinh thần vẫn còn tin theo Stalin. Do đó, để thành công, bất cứ cải cách nào cũng phải đi từng bước, phải lay chuyển từ tầng lớp này đến tầng lớp khác, củng cố bước tiến đã đạt được, và phải hết sức cẩn trọng để không làm cho các lợi ích chủ quan và khách quan đang tồn tại đối lập lại mình.

Tấn công vào di sản Brezhnev là dễ hơn và vì nó cho thấy rõ tình trạng đồi bại cá nhân, trì trệ xã hội, lạc hậu rõ về kinh tế ngày càng tăng.

Tấn công vào di sản Stalin khó hơn, do những lợi ích quan liêu đã được ban cấp vào, do tâm lý trung thành với đảng của những người dân Xô Viết nhiều tuổi.

Khó hơn cả là di sản của Lenin, di sản này được kết hợp kỷ niệm yêu quý về NEP ( Chính Sách Kinh Tế Mới ) với sự khẳng định vai trò lịch sử duy nhất của một đảng ưu tú, đảng đó tạo ra một giới cầm quyền ưu tú và mang tính chính đảng, tính hợp pháp.

Mikhail Gorbachev bị đẩy lên vũ đài lịch sử với một niềm hy vọng mơ hồ là làm cho hệ thống Xô Viết sống động trở lại. Điều còn ít rõ ràng hơn thế nữa là NHỮNG CẢI CÁCH CẦN THIẾT CÓ THỂ ĐI XA TỚI ĐÂU, VÀ MÔ HÌNH NÀO SẼ ĐƯỢC SỬ DỤNG NHƯ LÀ MÔ HÌNH PHÙ HỢP CHO NHỮNG CẢI CÁCH ĐÓ?

Chiến dịch Glasnost ( Công Khai ) của Gorbachev được đề xướng vào năm 1985, nó khuyến khích người ta khai báo về những sự lạm quyền đang diễn ra bởi nhà nước quan liêu, kể cả bộ máy cảnh sát cho đến thời điểm đó vẫn là bất khả xâm phạm, và về sự lãng phí và quản lý tồi trong khu vực kinh tế. Gorbachev và những cộng sự của ông mở rộng phạm vi của chiến dịch vào năm 1987 đến mức bao gồm một chương trình sửa đổi đầy tham vọng chủ yếu nhằm vào quản lý và kế hoạch hóa nền kinh tế của nhà nước.

Nhưng điều đó cũng dẫn đến câu hỏi liệu cải cách cơ bản nền kinh tế Xô Viết có thể thực hiện được không nếu nó không làm đảo lộn một cách sâu sắc hệ thống chính trị và không mở cửa một cách rộng hơn cho tự do của trí thức.

Như vậy đâu là giới hạn của cải cách là câu hỏi quan trọng chưa được giải đáp.

Gorbachev chắc chắn là cũng chưa biết được câu trả lời cụ thể. Phát biểu trong một cuộc hội nghị vào giữa Tháng Bảy, 1987, Gorbachev kêu gọi cho một “nền văn hóa chính trị” mới của Liên Xô, và việc vay mượn hai từ đó của xã hội chính trị phương Tây đã gây ấn tượng thật sâu sắc.

Gorbachev nhận định: “Chúng ta hiện nay phải trở lại trường học về dân chủ. Chúng ta phải học. Tư duy chính trị của chúng ta không còn thích hợp. Ngay cả khả năng tôn trọng quan điểm của những bạn bè, đồng chí của chúng ta cũng không còn thích hợp”. Những cách thực hành của Liên Xô đã mất tín nhiệm trên phạm vi toàn thế giới, và sẽ phải bằng cách nào đó bác bỏ hoặc sửa đổi [ Trang 44 ].

Mặt khác, để làm được điều này, không những cần phải có một cuộc cách mạng trong tư duy chính trị mà còn cả một quyết tâm bác bỏ mạnh mẽ về mặt thể chế, đối với hai nguồn gốc của tình trạng tiến thoái lưỡng nan hiện nay của Liên Xô: chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Lenin.

Trừ phi chủ nghĩa Stalin bị xóa bỏ và chủ nghĩa Lenin bị làm phai nhạt đi một cách mạnh mẽ, còn không thì nhà nước Xô Viết vẫn còn tồn tại như một quái thú không có nội dung xã hội mang tính xây dựng và không có lý tưởng hoặc quan điểm lịch sử. Nó sẽ tiếp tục xung đột với khuynh hướng trên thế giới là đề cao những quyền tự do của cá nhân, và sẽ tiếp tục thiếu hụt những điều kiện tiên quyết cần thiết cho những sự sáng tạo thực sự về xã hội và về công nghệ.

Tuy vậy, thực tế cho thấy rằng, sự phá bỏ chủ nghĩa Stalin và làm phai nhạt chủ nghĩa Lenin chỉ có thể được tiếp tục tiến hành một cách tốt nhất theo một lộ trình có từng giai đoạn, nhất là đối với truyền thống của chủ nghĩa Lenin, thì phải hết sức thận trọng. Đó là nhiệm vụ cực kỳ khó khăn, do nó vấp phải các quyền lợi được bao cấp của giới thượng lưu cầm quyền, chưa nói đến truyền thống kéo dài ở nước Nga trong đó quyền lực tối thượng của nhà nước trùm lên toàn xã hội.

Hơn nữa, tính chất nhiều dân tộc của nhà nước Xô Viết cũng đặt ra một tình huống phức tạp, bởi vì bất cứ một sự phi Stalin hóa thực sự nào cũng làm nổi lên các bóng ma những khát vọng dân tộc tự quyết ngày càng tăng lên của những dân tộc không phải Nga, đặc biệt là trường hợp của Trung Á, với số dân từ 45 đến 50 triệu người Hồi Giáo, đã bị buộc phải từ bỏ tôn giáo của mình để theo chủ nghĩa “vô thần” của cộng sản. Tiếng nói của quyền tự quyết dân tộc sẽ đe dọa trực tiếp sự sống còn của Liên Xô thống nhất.

Việc xử lý chủ nghĩa Lenin càng khó khăn hơn. Chủ nghĩa Lenin đóng vai trò cốt tử đối với giới thượng lưu cầm quyền về tính chính đáng lịch sử, nó giúp hợp lý hóa yêu cầu của họ về quyền lực. Bất cứ sự bác bỏ nào đều sẽ là một sự tự sát tâm lý tập thể. Sau bấy nhiêu “thập kỷ”, giới thượng lưu cộng sản Liên Xô không thể đột nhiên tự xác định lại mình như là một biến thể nào đó của nền xã hội – dân chủ phương Tây, một biến thể được làm sống lại của những người Menshevik trước đây ( mà Lenin đã từng đập tan ).

Do đó, để công bằng với Gorbachev, phải nói rằng ông ta không có gì nhiều để chọn lọc trong vấn đề hóc búa này. Từ bỏ cả chủ nghĩa Stalin lẫn chủ nghĩa Lenin có nghĩa là bác bỏ toàn bộ thời đại cộng sản.

Nó cũng đòi hỏi việc giới cầm quyền phải chấp nhận các viễn cảnh mới là phần lớn biến đổi xã hội có tính ngẫu nhiên, mơ hồ và nhiều khi tự phát, và kết quả là sự phức tạp xã hội sẽ không bao giờ có thể nhồi vào cái áo chật chội của thứ gọi là ý thức hệ [ Cộng sản ].

Để khởi đầu công cuộc Cải Tổ đầy tham vọng của mình, Gorbachev đầu tiên tập trung sự chú trọng vào việc hợp lý hóa và hiện đại hóa nền kinh tế Xô Viết. Hoặc vì thiếu thận trọng, hoặc có lẽ vì nghĩ rằng thành tựu kinh tế có thể được nâng lên một cách nhanh chóng bằng sự cải tiến trong quản lý và kế hoạch hóa kinh tế, ông ta đẩy mạnh trước hết vào việc loại trừ những vấn đề lãng phí, quản lý tồi, kiểm soát chất lượng không thích hợp, kỷ luật lao động lỏng lẻo, nạn nghiện rượu, và sự luộm thuộm nói chung. Điều này khiến người ta có cảm tưởng là ông ta đã lựa chọn cho Liên Xô mô hình Đông Đức, nơi mà hệ thống cộng sản tỏ ra có hiệu quả, có kỷ luật và phát triển về mặt công nghệ học.

Không nghi ngờ gì, ít lâu sau, ông ta thất vọng nhận thấy rằng, người Nga không phải là người Phổ ( tên cũ của người Đức ), rằng ảo tưởng ông ta xem Liên Xô như là Đông Đức rõ ràng không đúng.

Ông ta phải đối diện với thực tế là những vấn đề mà ông ta phải đương đầu có nguồn gốc sâu xa về mặt văn hóa và hệ thống. Có 10 vấn đề lớn và đan xen vào nhau được xác lập trong cuộc Cải Tổ này:

(1) Cải cách kinh tế; (2) Những ưu tiên về xã hội; (3) Dân chủ hóa chính trị; (4) Vai trò của đảng; (5) Hệ tư tưởng, tôn giáo và văn hóa; (6) Di sản của lịch sử; (7) Những vấn đề dân tộc trong nước; (8) Những lo âu trong nước về cuộc chiến tranh ở Afghanistan; (9) Chính sách đối ngoại và quốc phòng; (10) Khối Xô Viết và phong trào cộng sản thế giới.

Xét một cách tổng thể đây chính là những vấn đề đã làm rạn nứt sự thống nhất bề ngoài đã được xác lập từ lâu ở Liên Xô.

Vào Tháng Sáu, 1988 tại Hội nghị Đảng toàn quốc đặc biệt lần thứ 19. Gorbachev đã thay đổi quan điểm.

Trong bài phát biểu khai mạc, Gorbachev đã nói rằng cải cách chính trị có tầm quan trọng hơn sự xây dựng lại cơ cấu kinh tế: “Chúng ta đang phải đương đầu với nhiều vấn đề phức tạp. Vấn đề cốt yếu nhất là cải cách hệ thống chính trị của chúng ta”.

Gorbachev cũng phê phán những người chờ đợi những cải cách từ bên trên và khích lệ những người phát động việc gây áp lực từ cơ sở: “Ở nhiều địa phương khác nhau, có những người đã nói và viết rằng Cải Cách đã không đến được với họ; họ hỏi rằng đến bao giờ thì nó sẽ đến. Nhưng Cải cách không phải là từ trên trời rơi xuống, đáng lẽ không phải chờ đợi nó từ đâu đưa đến mà phải tự nhân dân ở các thành phố, làng mạc, công việc tập thể đem đến cho mình”.

Như vậy, “dân chủ hóa” chính là điều kiện cần thiết để đẩy mạnh cuộc cải cách này.

Những hồi âm đối với những lời kêu gọi của ông ta là rất thiếu đồng nhất. Nhiệt tình của những người ủng hộ ông ta, nhất là trong các Viện nghiên cứu và trong giới trí thức ở Moskva đã bị bù đắp ngược lại bởi một sự lạnh nhạt nổi bật trong đám quan liêu và số chức sắc trong đảng. Lý lẽ của họ là “Dân chủ sẽ dẫn tới hỗn loạn”. Đó là luận điệu quen thuộc của những quan chức cộng sản đang “cuống quýt lo cho những quyền lợi ích kỷ của họ”.

Để đoạn tuyệt thật sự với quá khứ và để mở ra sự sáng tạo xã hội, những di sản của quá khứ cần được xếp lại. Một số người ủng hộ Gorbachev muốn đi xa hơn, bằng cách lên án Lenin đã đàn áp những cuộc đàn áp quần chúng, xem đó như là giải pháp bản lề để có thể giải quyết trước hết là những vấn đề chính trị và sau đó là những vấn đề kinh tế. Tuy nhiên, đó vẫn còn là những quan điểm lẻ loi.

Vấn đề của tương lai chính là: Liệu hệ thống Xô Viết có thể tiến hóa trở thành một cơ chế đa nguyên hơn, có tính sáng tạo lớn hơn về xã hội và kinh tế và có thể làm cho Liên Xô thực sự có khả năng cạnh tranh hơn trên vũ đài thế giới.

Hệ thống chính trị ấy qua bao nhiêu năm trời đã nhào nặn ra một xã hội bằng bạo lực, theo một bản thiết kế tư tưởng đầy tham vọng và thiếu thực tế, và sau đó, nó lại khiến cho toàn xã hội bị lệ thuộc nghiệt ngã vào nó.

Do đó muốn dần dần thoát khỏi cái chế độ đó thì nó phải thể chế hóa từng bước một để chuyển qua một khuôn khổ chính trị đa nguyên hơn, nhằm cho phép xã hội đảm nhận một vai trò tích cực hơn và đảm bảo rằng đời sống chính trị thực sự trở thành một phương diện của sự tồn tại xã hội thông thường.

Tuy nhiên, để làm được điều này, những người lãnh đạo nước Nga mới phải trả lời được hai câu hỏi:

Thứ nhất, liệu có thể làm cho kinh tế hồi sinh mà lại không phải dùng biện pháp tương ứng để xem xét lại vai trò của Đảng Cộng Sản trong việc quản lý xã hội hay không? Thứ hai, liệu có thể thực hiện việc phi tập trung hóa nền kinh tế cũng như thu hẹp vai trò cai trị chủ đạo của Đảng mà không phải trả lại quyền lực cho những người không phải là người Nga mà điều này có thể dẫn đến sự phân tán mà cũng tương đương với việc dần dần phá vỡ Liên Xô hay không?

Một số kịch bản đã được tính tới, ngoài kịch bản số I là Cải Cách thành công như mong đợi.

Kịch bản II: Rối loạn kéo dài và không có kết luận.

Kịch bản III: Ngưng trệ trở lại, vì Cuộc Cải Cách đã hụt hơi.

Kịch bản IV: Có thể xảy ra chính biến, cải cách thụt lùi, đàn áp, phản ứng lại kịch bản I và II.

Kịch bản V: Liên Xô bị vỡ tan thành từng mảnh do kết quả của một sự kết hợp nào đó các cách chọn trên.

Tóm lại, tình trạng nan giải tất yếu của chế độ cộng sản ở Liên Xô đó là: chỉ có thể có thành công kinh tế bằng cái giá là sự bất ổn của chính trị, trong khi sự ổn định chính trị của nó lại chỉ có thể duy trì bằng cái giá là sự thất bại về kinh tế.

Những người lãnh đạo chóp bu, kể cả Gorbachev, đã chưa bao giờ hình dung ra những khó khăn nghiêm trọng này, trong tình trạng loay hoay tìm một mô hình hợp pháp và hợp lý để thay thế cho mô hình Xô Viết cũ, và chịu đựng nhiều sự công kích từ nhiều phía, đã không thể làm gì để tiếp tục đưa công cuộc cải tổ này đến chỗ “thắng lợi”. Cuối cùng, Mikhail Gorbachev bị coi là người theo chủ nghĩa xét lại.

Tác Giả: Từ Liên.

Phần 4: Giới thiệu sách: “THẤT BẠI VĨ ĐẠI – Sự Ra Đời Và Cái Chết Của Chủ Nghĩa Cộng Sản Trong Thế Kỷ XX” của Zbigniew Brzeziński. Tác Giả: Từ Liên.

Chính dưới thời Stalin, việc đề cao nhà nước và việc sử dụng bạo lực nhà nước như một công cụ xây dựng lại chủ nghĩa xã hội đã đạt tới tột đỉnh.

THẢM HỌA CỦA STALIN

Thiên tài của Stalin là ông ta có thể hiểu sâu sắc ý nghĩa di sản của Lenin.

Đối thủ chính của ông ta, Leon Trotsky đã phạm sai lầm cơ bản là tấn công vào những điểm yếu kém đã bắt đầu lan tràn ở Liên Xô từ những năm 1920, cũng như dám tấn công trực diện vào con người Stalin.

Lev Davidovich Trotsky.
Lev Davidovich Trotsky tên được biết đến là Leon Trotsky.

[ Lev Davidovich Trotsky là một trong những lãnh đạo của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, với vị trí chỉ đứng sau Lenin. Ông cũng là một trong những thành viên đầu tiên của Bộ Chính Trị. Sau khi lãnh đạo một cuộc đấu tranh thất bại của Cánh Tả Đối Lập chống lại các chính sách, sự quan liêu, và sự thăng tiến của Joseph Stalin trong thập niên 1920, Trotsky bị khai trừ khỏi Đảng Cộng Sản và bị trục xuất khỏi Liên Xô, cuối cùng bị ám sát tại Mexico bởi một người được cho là điệp viên của Liên Xô. Các ý tưởng của Trotsky vẫn thuộc trường phái Marxist chính thống dù nó đối lập với các lý thuyết của Chủ nghĩa Stalin ].

Sự chống đối này của Trotsky đã làm tổn thương đến bản năng tự vệ của tầng lớp quan chức quan liêu trong đảng, những kẻ không sẵn sàng hy sinh tất cả quyền lợi của họ cho bất kỳ một cuộc cách mạng nào có thể dẫn tới sự thay đổi trật tự xã hội mà họ đang là những người được hưởng lợi.

Trái lại, Stalin lại biết khai thác thứ bản năng này của các quan chức cộng sản, ông ta liền phát động một cuộc cách mạng trong nước nhằm ngăn chặn nguy cơ nhìn thấy chế độ cộng sản đã bắt đầu có dấu hiệu chết chìm, do tính sống động của xã hội không ngừng tăng lên. Như vậy là, ông ta đã thỏa mãn nhiệt tình tư tưởng của họ, đồng thời cũng đáp ứng được lợi ích của bản thân họ.

Cuộc cách mạng của Stalin đưa ra một mệnh đề then chốt, “Chủ nghĩa xã hội trong một nước” [ Socialism in one country ], sau này đã trở thành học thuyết Stalin, nhằm thực hiện một sự tàn phá mang tính hủy diệt xã hội chưa từng thấy, nhờ một bộ máy nhà nước khủng bố tập trung cao độ. Một nhóm lãnh đạo có những âm mưu và tư tưởng đen tối [ theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, vì họ làm việc vào ban đêm đầy bí mật, trong một số phòng ở điện Kremlin ], tự đảm nhận nhiệm vụ mà họ gọi là “xây dựng lại xã hội“, tiêu diệt phần lớn giai cấp nông dân và giai cấp trung lưu, cưỡng bức di dân hàng triệu người, và nhờ vào quá trình đó, họ đã mở rộng phạm vi quyền lực của nhà nước đến một mức độ xưa nay chưa có nơi nào trên thế giới này so sánh nổi.

Chủ nghĩa xã hội trong một nước” do đó có nghĩa là “MỘT QUỐC GIA HOÀN TOÀN PHỤ THUỘC VÀO QUYỀN LỰC CỦA MỘT NHÀ NƯỚC / MỘT ĐẢNG TỐI CAO”.

Chính dưới thời Stalin, việc đề cao nhà nước và việc sử dụng bạo lực nhà nước như một công cụ xây dựng lại chủ nghĩa xã hội đã đạt tới tột đỉnh.

Mọi hoạt động của xã hội và người dân đều phụ thuộc vào một cá nhân độc tài và nhà nước mà ông ta là người chỉ huy. Được tán dương trong thơ ca, hoan hô trong âm nhạc, được tôn sùng với hàng nghìn những bức tượng, Stalin có mặt khắp nơi, và ông ta đã thống trị mọi điều. Là một người bạo ngược chuyên quyền ít có đối thủ nào có thể sánh ngang trong lịch sử, Stalin đã thực hiện quyền lực của mình thông qua một cơ cấu nhà nước đầy uy quyền và phức tạp, cả hai mặt quan liêu hóa và thể chế hóa đều ở mức độ cao. Toàn bộ xã hội bị đảo lộn theo mục đích của Stalin, bộ máy nhà nước vụt lớn lên về địa vị, về giàu có, về quyền lực và đặc quyền.

Cái tháp của quyền lực được đặt trên cơ sở một chế độ khủng bố mà không bảo đảm an ninh cho bất cứ ai, kể cả những người đồng chí thân cận nhất của Stalin. Không ai có thể tránh khỏi tính khí thất thường của Stalin. Một ủy viên bộ chính trị được Stalin sủng ái một ngày nào đó đều có thể trở thành nạn nhân của một vụ xét xử và bị bắn vào một ngày khác. Và đó là số phận của N. A. Voznesensky, vốn được nhiều người xem như là được Stalin chuẩn bị cho giữ chức vụ cao nhất trong chính phủ” [ Trang 23 ].

Nikolai Alekseevich Voznesensky.
Nikolai Alekseevich Voznesensky.

Trong khi đó, đối với những người luôn bày tỏ lòng trung thành hoàn toàn với Stalin, đồng lõa hăng hái vào những tội ác của Stalin… cũng ít có cơ hội tránh khỏi nạn bị khủng bố hoặc bị sỉ nhục vào bất cứ lúc nào. V. Molotov và M. I. Kalinin, cả hai đều tham gia vào việc lập danh sách các đồng chí của mình để đem đi giết, đã tham dự vào những cuộc họp bàn tròn của bộ chính trị, trong khi đó thì vợ của họ bị đưa đến các trại lao động cưỡng bức theo lệnh của Stalin.

Như vậy là, quyền lực tối cao đối với sự sống và cái chết ở nhà nước Xô Viết, trong khoảng một phần tư thế kỷ, đã được đặt trong tay một nhóm nhỏ những kẻ đầy âm mưu và hết sức tàn nhẫn. Đối với đám người này, việc buộc tội chết cho hàng nghìn, hàng vạn con người, những người vô tội bị gán cho cái tội hết sức mơ hồ là “kẻ thù của nhân dân”, chỉ có ý nghĩa như là một hành động quan liêu nhỏ bé. Dù cho một ngày nào đó, những kho lưu trữ Xô Viết hoàn toàn được mở ra ( tờ tạp chí chống đối Glasnost ở Moskva, Tháng Tám, 1987 cho biết là để che đậy quá khứ, cơ quan an ninh KGB đã hủy hồ sơ các nạn nhân từ những năm 1930 đến những năm 1940 với tỷ lệ 5.000 hồ sơ mỗi tháng ), thì người ta vẫn sẽ không bao giờ biết hoàn toàn quy mô những vụ diệt chủng trên quy mô khủng khiếp của Stalin.

Hình thức tàn sát trực tiếp bằng cách giết chết ngay lập tức hoặc bằng cái chết kéo dài, ĐÓ LÀ SỐ PHẬN CỦA TẤT CẢ CÁC LOẠI NGƯỜI TRONG SỐ NHÂN DÂN CỦA HỌ, KHÔNG TRỪ MỘT AI: Những đối thủ chính trị, những đối thủ về hệ tư tưởng, những đảng viên bị nghi ngờ về lòng trung thành, những sĩ quan quân đội bị buộc tội, những nông dân tự do Kulak, những thành viên của các giai cấp đã bị hạ bệ [ chủ yếu là tư sản, địa chủ, trí thức ], những quý tộc trước đây, những nhóm dân tộc bị nghi ngờ là không thần phục Đảng, những nhóm dân tộc bị xem là chống đối, những người truyền giáo cũng như những người có lòng sùng đạo, và đến cả họ hàng, ( và trong nhiều trường hợp ) còn gồm toàn thể gia đình của những nạn nhân kể trên [ Trang 23 ].

Thật không lời nào nói được quy mô toàn bộ sự đau khổ của cá nhân và tập thể con người mà Stalin đã gây nên – nhân danh chủ nghĩa xã hội, hàng triệu gia đình nông dân đã bị đi đày với những điều kiện thiếu thốn cổ xưa nhất, và đối những người vẫn còn sống sót khi di cư đến vùng Siberia khắc nghiệt, xa xôi.

Stalin cũng phải chịu trách nhiệm về nạn chết đói của hàng triệu nông dân Ukraina trong nạn đói lớn đầu những năm 1930, những nạn đói đã được khai thác một cách cố ý, để đẩy nhanh quá trình tập thể hóa, và ở một góc độ khác, nạn đói đó đã được sinh ra do chính bản thân công cuộc tập thể hóa tàn bạo được khởi xướng trước đó.

Qua những cuộc thanh trừng, bản thân Đảng cũng bị tiêu hao nhiều: phần lớn những người lãnh đạo cấp cao bị giết và gia đình họ bị khủng bố tàn bạo. Những vụ bắt bớ và giết hại hủy hoại toàn bộ xã hội Xô Viết và lên tới hàng triệu người [ Đảng viên ].

Theo những số liệu của chính Liên Xô công bố, chỉ riêng trong khu vực quân sự, ít nhất là 37.000 sĩ quan lục quân và 3.000 sĩ quan hải quân đã bị bắn trong những năm 1937-1938, nhiều hơn con số người thực tế đã hy sinh trong hai năm đầu của cuộc chiến tranh Xô-Đức.

Các trại tập trung Gulag cứ phình lên dưới thời Stalin. Những vụ bắt bớ cá nhân và từng nhóm là chuyện xảy ra ồ ạt và liên tục. Có những nhóm dân tộc mà toàn bộ người của họ đã trở thành mục tiêu cho những cuộc diệt chủng: Ngay trước khi nổ ra cuộc chiến tranh năm 1939, toàn thể nhân dân Ba Lan sống ở Liên Xô trong vùng biên giới Liên Xô – Ba Lan, đông tới hàng chục vạn người, đột nhiên biến mất, chỉ còn lại phụ nữ và trẻ em được di cư đến Kazakhstan. Đàn ông đã chết hết. Trong những giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, những người Tatar ở Crimea, và những người Chechen-Ingush ở miền bắc Caucasus đông tới hàng chục vạn người đã bị “nhổ bật” khỏi những nơi đó, và bị đưa đi đày đến Siberia.

Bản đồ vùng Caucasus.
Bản đồ vùng Caucasus.

Sau chiến tranh, mặc dầu đã có sự tiết lộ về vụ Nazi ( Đức Quốc Xã ) đã đưa vào lò thiêu hàng triệu những người Do Thái, dòng người Do Thái ở Moskva và Leningrad lại đột nhiên biến thành mục tiêu và những người lãnh đạo cộng đồng của họ lần lượt bị tiêu diệt. Năm 1949, hàng chục vạn người dân vùng Ban Tích bị đày đi Siberia. Theo sự tính toán chi tiết của Liên Xô do đài phát thanh Vilnius trích dẫn ngày 22/9/1988, chỉ riêng nạn nhân người Lithuania đã là 108.362 [ Trang 24 ].

Cho đến ngay trước khi Stalin chết, người ta thấy đã có sự chuẩn bị để đưa ra những vụ xét xử mới về “âm mưu của những bác sĩ Do Thái”, những nạn nhân bị buộc tội là có âm mưu giết hại những người lãnh đạo tối cao ở điện Kremlin.

Như vậy, theo đúng nghĩa của nó, hàng chục triệu cuộc sống tốt đẹp đã bị làm tiêu tan. Nỗi đau khổ đã được chia đều cho cả những tầng lớp dưới cũng như tầng lớp trên trong xã hội.

Tuy rằng tổng số nạn nhân của Stalin có thể không bao giờ được biết hết, nhưng có thể hoàn toàn chắc chắn để ước lượng ít nhất là 20 triệu và có lẽ cao nhất là 40 triệu.

Trong quyển sách “Cuộc Đại Khủng Bố” xuất bản năm 1968, nhà sử học Anh Robert Conquest tổng hợp những bản ước lượng đầy đủ và đáng tin nhất, và những sự tính toán cẩn thận của ông ta đưa đến con số ở mức độ cao như đã nêu ở trên. Xét tổng thể, Stalin chắc chắn là kẻ giết nhiều người nhất trong lịch sử nhân loại, về thống kê vượt xa ngay cả Hitler.

Mỉa mai thay, những vụ giết người hàng loạt đó là một bộ phận, một phần của công cuộc xây dựng hệ thống Xô Viết. Hệ thống đó đã nổi lên, dần dần phát triển về mặt thể chế, để rồi bị xơ cứng trong cơ chế quan liêu hóa mà nó đã tạo ra, và nó bộc lộ bản chất của chính nó khi những vụ giết người hàng loạt được tiến hành. Nhưng khía cạnh đáng chú ý của quá trình đó là mặc dù chính là người đã ra lệnh tiến hành tất cả những hành động tàn bạo đó, Stalin lại đã thành công trong việc tạo nên một nhận thức sai lệch về thành tựu trong não bộ của những người dân thuộc tầng lớp thượng lưu Xô Viết, và trong phần lớn cư dân mới ở thành thị Xô Viết.

Ông ta đã làm như vậy bằng cách đồng nhất hóa các chính sách của ông ta và bản thân ông ta với việc xây dựng lại xã hội Xô Viết trong đó bao gồm công nghiệp hóa trên quy mô lớn và đô thị hóa, tất cả đều được dán nhãn hiệu “nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Vậy là, đối với nhiều công dân Xô Viết, thời đại Stalin là thời đại đạt được một số tiến bộ xã hội, một bước đại tiến vọt lịch sử, và có thể bao gồm cả một tình cảm tự hào chính đáng về thành tựu của lòng yêu nước. Thứ nhận thức này đã củng cố cho một tư tưởng “sùng bái cá nhân Stalin” được đẩy lên tới mức cực điểm.

Những người này, là những người đã tiếp nhận và làm lan tỏa tư tưởng bài ngoại điển hình của người Nga, từ việc cho rằng kẻ thù của nước Nga sẽ lợi dụng bất cứ sự sơ hở nào của nước Nga để lợi dụng công kích, nói xấu nước Nga, đến chỗ luôn luôn khẳng định rằng thời đại Stalin là một thành tựu vĩ đại và không ai được phép bôi nhọ nó.

Một số “công dân“, trong những bức thư gửi các báo như Pravda hoặc Izvestia vào năm 1987, đã chống lại cuộc khôi phục cho những nạn nhân của Stalin với lý lẽ là điều đó là bất công với quá khứ và làm tổn hại đến uy tín của Liên Xô.

Làm sao lại có thể bôi nhọ giá trị của sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước, tập thể hóa nông nghiệp, cách mạng văn hóa, cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại, và sự khôi phục nền kinh tế quốc dân sau chiến tranh NHƯ LÀ những sai lầm, hiện tượng tiêu cực, tội ác, phạm pháp? Và lòng nhiệt thành của chúng ta, thanh niên của chúng ta, nhiều bài hát của chúng ta? Chẳng lẽ chúng cũng bị vứt bỏ cả sao?” [ Trang 28 ].

Thời đại Stalin như vậy là đã được nhận xét một cách rộng rãi như là một thời đại thay đổi lớn về xã hội, về sự biến đổi cơ bản từ một nền kinh tế nông thôn thành một nền kinh tế thành thị. Và đối với một số lĩnh vực, trong một chừng mực nhất định, đó là sự thật. Dưới thời Stalin, Liên Xô đã trở thành một cường quốc về công nghiệp.

Dân số Liên Xô đã di chuyển từ nông thôn. Toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa được chỉ huy từ trung tâm đã được thể chế hóa. Nền kinh tế Xô Viết đã duy trì được một tỷ lệ tăng trưởng tương đối cao.

Theo những thống kê chính thức, tổng thu nhập quốc dân của Liên Xô tăng gấp bốn lần trong những kế hoạch năm năm đầu tiên, với tỷ lệ tăng trưởng hàng năm lên tới gần 15%. Điều đó đòi hỏi một sự di chuyển lớn lao của dân cư, với số dân sống ở khu vực thành thị tăng gấp đôi trong vòng 13 năm.

Từ năm 1928 đến năm 1940 sản lượng điện, thép, máy công cụ, xe cơ giới đều tăng mạnh.

Ngay trước cuộc Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai, công nghiệp đã chiếm 84,7% nền kinh tế Xô Viết. Cho dù số liệu có được thổi phồng trong các báo cáo chính thứ, thì đó vẫn là những thành tựu lớn không thể phủ nhận [ Trang 28 ].

Đà kinh tế lớn mạnh trong những năm đầu của Stalin giải thích một phần sự ngạc nhiên của một số ít người ở phương Tây trước cường độ của chiến dịch chống Stalin ở Liên Xô đã nổi lên một cách dữ dội chỉ ba năm sau khi tên bạo chúa qua đời.

Những chiến dịch này đã làm hé mở những tâm trạng thất vọng, những thực tế của cuộc sống không ổn định, những sự đau khổ vô hạn của con người, sự đổ máu vô nghĩa, tất cả những cái đó dường như đều không thể hiểu được khi nó tồn tại ngay trong lòng những chiến dịch “thắng lợi” vẻ vang của Stalin.

Nikita Khrushchev.
Nikita Khrushchev.

Bài diễn văn nổi tiếng của Khrushchev năm 1956, và sau đó những tư liệu đầy đủ hơn được cung cấp bởi những bài diễn văn chống Stalin trong đợt hai tại Đại Hội Đảng lần thứ XXII vào năm 1961 đã đưa ra bản án kết tội làm choáng váng toàn xã hội Liên Xô, về cái giá mà nó đã phải trả cho cái gọi là “kinh nghiệm Stalin“.

Bất chấp nhịp độ tiến triển của quá trình công nghiệp hóa, cái giá xã hội phải trả trong thời đại Stalin không thể đơn giản chỉ được biện minh bằng những thành tựu của công cuộc hiện đại hóa, chưa kể tới sự sai lầm về mặt đạo đức, những biện minh này cũng không thể đứng vững trong thực tế, trong so sánh giữa các quốc gia trên toàn thế giới.

Trong phạm vi có thể so sánh, điều hiển nhiên là Nhật Bản đã làm tốt hơn cả sau cuộc phục hưng của Minh Trị Thiên Hoàng trong thế kỷ XIX và cả sau Thế Chiến Thứ Hai mà lại không đòi hỏi một sự tổn thất về con người đến như thế.

Cũng như vậy, thành tựu toàn diện của Ý trong công cuộc hiện đại hóa ở thế kỷ này, mà Ý và Nga nói chung là gần nhau xét theo những chỉ tiêu kinh tế – xã hội thời kỳ bắt đầu của thế kỷ này, cũng tốt hơn Liên Xô một cách đáng kể.

Cuối cùng, chính nước Nga Sa Hoàng cũng đã duy trì được một tỷ lệ tăng trưởng cao từ 1890 đến 1914, hơn là Stalin đã đạt được với một cái giá về tổn thất con người là không thể tưởng tượng được.

Cyril E. Black, một sử gia của trường đại học Princeton đã kết luận trong bài viết của ông có tựa đề: “Xã hội Xô Viết: một cách nhìn so sánh”. Bài viết đó đã đưa ra một nhận định sáng suốt về quá trình công nghiệp hóa Xô Viết:

Trong viễn cảnh của 50 năm, sự so sánh trong việc xếp hạng Liên Xô về những chỉ số kết hợp kinh tế – xã hội tính theo đầu người chắc chắn là không có sự thay đổi đáng kể. Nhiều bằng chứng khá hiển nhiên cho thấy rằng Liên Xô cũng chưa vượt trội hơn bất cứ nước nào từ năm 1917 tính theo đầu người…, và 19 hoặc 20 nước xếp hạng cao hơn nước Nga ngày nay, về mặt này thì cũng đứng trên nước Nga vào những năm 1900 và năm 1919“.

Bên cạnh đó, cũng có nhiều người thuộc giới nghiên cứu khoa học ở phương Tây đã chịu ảnh hưởng của quan điểm cho rằng chủ nghĩa Stalin là một “hình thái” tất yếu của lịch sử, được tạo nên do những nhu cầu cấp bách về công cuộc công nghiệp hóa nhằm chuẩn bị cho trận chiến với Hitler. Tuy nhiên, những chiến dịch vạch trần được Khrushchev ủng hộ đã trưng ra nhiều bằng chứng để phá tan cái viễn cảnh đó. Sự kiện được xem là cái đinh cuối cùng đóng vào cỗ quan tài huyền thoại về Stalin đã được thực hiện bởi Alexander Solzhenitsyn với tác phẩm “Các Trại Tập Trung” mà ông gọi là “Quần Đảo Gulag” ( The Gulag Archipelago ). Tất cả những nỗ lực này, cùng với nhiều những tiếng nói từ những dân tộc khác đã phải chịu đựng nhiều đau khổ dưới triều đại Stalin, đã đem đến kết quả là ngay cả những đảng cộng sản phương Tây cũng phải thừa nhận rằng chủ nghĩa Stalin là một tội ác man rợ mà lịch sử không cần thiết phải có. Như vậy là chủ nghĩa Stalin đã được quan niệm như là một sai lầm quái đản của kinh nghiệm cộng sản, một sự lầm lạc đáng tiếc và không được phép xảy ra.

Nguồn gốc của những di sản thảm họa mà Stalin đem lại chính là Lenin. Lenin đã để lại hai di sản là những con quái vật kếch xù: đảng cộng sản giáo điều và bộ máy cảnh sát bí mật khủng bố. Một khi những con quái vật đó bắt tay xây dựng lại xã hội thì quyền lực của Nhà Nước phát triển méo mó và bành trướng không thể ngăn chặn nổi. Di sản của Stalin là sự tâng bốc đến tận mây xanh các hành động bạo lực đáng ghê tởm, mà đã được chính Nhà Nước đỡ đầu, nhằm chống lại chính người dân nó. Nhìn cận cảnh, đó là một nhà nước cảnh sát bóp nghẹt sự sáng tạo xã hội, nó bóp chết từ trong trứng nước bất cứ biểu hiện nào của sự manh nha đổi mới trí tuệ, nó thiết lập một hệ thống đặc quyền theo đẳng cấp, và tất cả đều đặt dưới sự kiểm soát chính trị tập trung. Tai hại hơn, phần lớn di sản đó đã không thể kết thúc cùng với cái chết của Stalin, mà nó còn tồn tại dai dẳng ngay cả trong những cuộc tấn công dữ dội do Khrushchev phát động.

Kết quả là nó không chỉ làm cho mô hình Xô Viết mất tín nhiệm trên phạm vi rộng lớn của thế giới, mà sau thời Khrushchev, nước Nga lại tiếp tục hai mươi năm trì trệ tiếp theo về chính trị và xã hội của thời Leonid Brezhnev.

Leonid Brezhnev.
Leonid Brezhnev.

Di sản này, thậm chí vẫn tiếp tục cho tới khi Gorbachev lên nắm quyền. Sức hấp dẫn khó cưỡng chế của thứ quyền lực tuyệt đối cũng như những lợi ích mà nó mang lại, đã khiến một bộ phận lớn những người đang tiếp tục được hưởng hào quang từ trong quá khứ, đã từ chối mọi thay đổi. Thêm vào đó, việc thiếu một bộ máy đáng tin cậy, có thể tập hợp những thành viên có lòng nhiệt thành với đất nước, và có tầm nhìn xa với tương lai của dân tộc, để làm việc cùng nhau, nhằm thiết kế một con đường cải cách toàn diện, với những mục tiêu ngắn hạn và dài hạn, tổng thể và chi tiết, cho toàn bộ “nước Nga mới“, đã khiến những giấc mơ của Gorbachev tan vỡ… nước Nga tiếp tục bị chia rẽ thành một bức tranh có nhiều nhiều mảng màu khác biệt tương phản nhau, thậm chí không dung nạp nhau…

Tác Giả: Từ Liên.

Phần 3: Giới thiệu sách: “THẤT BẠI VĨ ĐẠI – Sự Ra Đời Và Cái Chết Của Chủ Nghĩa Cộng Sản Trong Thế Kỷ XX” của Zbigniew Brzeziński. Tác Giả: Từ Liên.

“Định nghĩa khoa học về chuyên chính là: Một quyền lực không bị hạn chế bởi bất cứ pháp luật nào, không bị ràng buộc bởi bất cứ quy tắc nào và trực tiếp dựa vào sức mạnh”.

Nguyên nhân đẩy nhanh sự hấp hối của chủ nghĩa cộng sản là sự thất bại của kinh nghiệm Liên Xô. Thật vậy, khi chúng ta tiến gần đến cuối thế kỷ XX, hình như càng ngày càng khó mà thuyết phục mọi người tin rằng mô hình Xô Viết đã một thời được xem là hấp dẫn và đáng được noi theo. Đây chính là thước đo cho biết kinh nghiệm của Liên Xô đã xuống thấp đến mức nào trong thiện cảm của công chúng ở nhiều nơi trên thế giới. Do đó, một câu hỏi thích hợp được đặt ra là: VẬY THÌ CÓ CÁI GÌ ĐÃ KHÔNG ĐÚNG VÀ TẠI SAO?

Điều này có lẽ sẽ được suy xét thỏa đáng hơn, khi chúng ta có thể tóm tắt một cách ngắn gọn toàn bộ chiều dài con đường lịch sử của kinh nghiệm Marxist ở nước Nga. Quả là một sự phát triển kỳ lạ khi một học thuyết của Tây Âu, do một trí thức Do Thái Đức lưu vong ( Karl Marx ) đã xây dựng nhờ vào những kiến thức thu thập được trong các thư viện của nước Anh, rồi lại được cấy ghép vào cái truyền thống chuyên chế gần như Đông phương của một đế quốc nửa Âu nửa Á [ Nước Nga ], vẫn còn trong thời kỳ lạc hậu, bởi một nhà cách mạng Nga làm nghề viết sách là Lenin. Có lẽ Lenin đã trở thành “bà đỡ của lịch sử” không những của nước Nga mà của một phần lớn thế giới nữa, theo cái cách có thể chính ông ta cũng không ngờ trước đó.

Tuy nhiên, cũng phải nói rằng, vào lúc diễn ra cuộc cách mạng Nga, chủ nghĩa Marx đã không còn là lý thuyết của một thủ thư tầm thường. Nó đã là một phong trào chính trị xã hội có tầm quan trọng ở Châu Âu, và có một diện mạo chính trị cụ thể. Nó được thể hiện như là một sự dấn thân vào xã hội, mà thường được những người theo chủ nghĩa Marxist gọi một cách mĩ miều là “Xã hội dân chủ”. Chủ nghĩa xã hội, đã được khéo léo và mập mờ, được nhập vào khái niệm “xã hội dân chủ”, và từ đó chủ nghĩa Marx [ hiểu theo nghĩa chung nhất ] như vậy, đã được phương Tây xem chủ yếu là mang tinh thần dân chủ.

Mặt khác, vào thời điểm Thế Chiến Thứ Nhất, đã có một chi nhánh Marxist nhỏ hơn tích cực đề cao quan niệm về một “cuộc cách mạng bạo lực nhằm dẫn tới sự áp đặt chuyên chính vô sản”. Những ai lo sợ sự nổi lên của chủ nghĩa xã hội dưới bất cứ chiêu bài nào đều run sợ khi nhớ lại những sự kiện đẫm máu của Công xã Paris năm 1871. Đối với nhiều người, từ “cộng sản” đã được xem là ĐỐI LẬP với từ “dân chủ”. Sự sụp đổ của chế độ Sa Hoàng như vậy là đã gợi lên những phản ứng trái chiều ở phương Tây đi từ phấn khởi hy vọng đầu tiên về nền dân chủ đến sự lo sợ lường trước về một nền độc tài cộng sản.

Kiev Thời Báo: Trong vùng Donetsk do nhóm ly khai chiếm, tượng của Lenin bị giật xuống.
Kiev Thời Báo: Trong vùng Donetsk do nhóm ly khai chiếm, tượng của Lenin bị giật xuống.

DI SẢN LENIN

Những gì đã diễn ra ở nước Nga sau cuộc cách mạng Bolshevik không làm cho những ai đã đọc kỹ Vladimir Ilyich Lenin phải ngạc nhiên. Nhà lãnh đạo Bolshevik của phái triệt để nhất trong số những người Marxist Nga đã không giấu giếm gì về những ý định của ông ta. Hết bài bút chiến này đến bài bút chiến khác, hết bài diễn văn này đến bài diễn văn khác, ông khinh miệt thẳng thừng những người bạn Marxist tán thành quá trình dân chủ. Ông nói không úp mở là theo ông, nước Nga chưa chín muồi cho một nền dân chủ xã hội và chủ nghĩa xã hội sẽ được xây dựng ở nước Nga “từ bên trên”, bởi chuyên chính vô sản [ Trang 17 ]. [ Theo các cơ quan tuyên truyền của Việt Nam: chuyên chính vô sản là một lý thuyết của chủ nghĩa Marx và là một bộ phận quan trọng của chủ nghĩa cộng sản khoa học, theo đó, nó chỉ việc giai cấp công nhân sẽ là giai cấp nắm quyền lực nhà nước và sử dụng quyền lực nhà nước để trấn áp, tiêu diệt giai cấp tư sản, các phần tử thù địch, chống lại nhân dân, để tiến hành xây dựng một xã hội không giai cấp. Tiếng Anh của cụm từ này là: dictatorship of the proletariat, có thể hiểu là Chế độ độc tài toàn trị của giai cấp vô sản ].

Sự “chuyên chính” đó, đến lượt nó phải được thực hiện bởi giai cấp vô sản, nhưng điều này đã không xảy ra trên thực tế, mà chỉ có trên danh nghĩa. Theo Lenin, giai cấp cầm quyền mới này cũng chưa sẵn sàng về mặt chính trị để cầm quyền cũng như bản thân nước Nga chưa chín muồi về mặt lịch sử cho chủ nghĩa xã hội được thực thi. Như vậy, nền chuyên chính mới yêu cầu phải có một đại diện có ý thức về mục đích và về mặt lịch sử để hành động nhân danh giai cấp vô sản. Cụ thể là, do những điều kiện lạc hậu của nước Nga, cả xã hội, cũng như cả giai cấp công nhân công nghiệp tương đối ốm yếu đều được xem là chưa sẵn sàng cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lịch sử do đó được đẩy nhanh bởi một đảng “tiền phong” của những người cách mạng được tổ chức thành đội ngũ đại diện cho những người “đã hiểu biết chắc chắn sứ mệnh lịch sử là gì” và được chuẩn bị trở thành những người tự nguyện bảo vệ sứ mệnh lịch sử đó. Khái niệm của Lenin về đảng tiền phong là câu trả lời “sáng tạo” cho những vấn đề tiến thoái lưỡng nan về một học thuyết chưa vững vàng ở nước Nga. Nhưng, mặt khác, nó cũng cho người ta thấy rằng, vậy là ngay từ buổi đầu của chủ nghĩa xã hội, những người nhân danh lãnh đạo đảng “tiền phong” đã lợi dụng sự hiểu biết non nớt của giai cấp công nhân vừa mới ra đời, ngập tràn bất mãn, và nhiệt thành với những khát vọng về một xã hội phi giai cấp. Một mặt những người này cho rằng, giai cấp công nhân là những người có những động cơ hợp lý nhất để lật đổ giai cấp tư sản đang thống trị họ, nhưng mặt khác, những người lãnh đạo đảng này lại coi công nhân là những người “chưa sẵn sàng về mặt chính trị để có thể nắm quyền”. Cuối cùng là họ, sử dụng những người công nhân này làm bàn đạp cho những tham vọng chính trị của họ, họ dùng sự yếu ớt, thiếu hiểu biết của giai cấp công nhân để biện minh cho việc nhảy lên vũ đài chính trị và nắm quyền thống trị toàn dân, xây dựng nhà nước theo những nguyên lý phi khoa học của họ… và do đó, việc viện dẫn đến tên gọi của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ giữa Lenin và những người theo ông ta là điều cần được đặt câu hỏi nghi ngờ.

Lenin và những người ủng hộ ông tự xem mình là những người Marxist, những người tiến trên con đường trước hết là đi tới chủ nghĩa xã hội, sau đó là chủ nghĩa cộng sản, và, trong chừng mực nào đó, những người cầm quyền Bolshevik đã tự đồng nhất họ và ý chí chủ quan của họ với học thuyết “chủ nghĩa xã hội”. Sự đồng nhất đó, dù là có phần thực tế, hoặc chỉ là chiến thuật của họ, thì có điều chắc chắn là cơ hội cho những người đề xuất học thuyết này. Nó thu hút trí tưởng tượng của nhiều người ở phương Tây vẫn hy vọng vào thắng lợi của chủ nghĩa xã hội dân chủ [ Democratic socialism: Chủ chương cải tổ xã hội thông qua những cuộc cải tổ hòa bình, không dùng tới một hình thức bạo lực cách mạng nào, mục đích là đạt đến xã hội có nền chính trị dân chủ đi kèm với quyền sở hữu xã hội đối với các phương tiện sản xuất, nó cũng nhấn mạnh khả năng tự quản lý của người lao động và các mô hình quản lý theo hình thức dân chủ của các tổ chức kinh tế trong một nền kinh tế thị trường ]. Mặc dù màn kịch này còn có nhiều chỗ vụng về, nhưng ngôi sao đỏ trên điện Kremlin, xem ra vẫn tiêu biểu cho buổi bình minh của chủ nghĩa xã hội, ngay cả trong hình thức không hoàn hảo ban đầu của nó.

Thời đại Lenin được đánh dấu bằng việc, ngay từ đầu nó đã bắt tay xóa bỏ tàn bạo mọi chống đối, thời đại này ( còn được kéo dài thêm vài năm sau khi Lenin mất năm 1924 ) đã chứng kiến một sự thử nghiệm lớn về xã hội và văn hóa. Sự năng động về trí tuệ diễn ra song song với các kế hoạch kinh tế – xã hội to lớn của Lenin, nó cũng bao trùm luôn cả các lĩnh vực nghệ thuật, kiến trúc, văn hóa, và xét một cách chung hơn là trong đời sống trí tuệ, nét nổi bật là sự cách tân, tạo những tín ngưỡng mới, và mở ra những chân trời khoa học mới. Chính sách kinh tế mới ( New Economic Policy hay NEP ) nổi tiếng mà về thực chất là dựa trên cơ chế thị trường và sáng kiến cá nhân nhằm kích thích khôi phục nền kinh tế là một hành động thích ứng với lịch sử, hoãn lại việc xây dựng tức khắc chủ nghĩa xã hội bởi nền chuyên chính vô sản mới. Nhưng, ngay cả điều này, trong thực tế đã có sự lý tưởng hóa quá mức quá khứ của nước Nga những năm 1920, phần lớn những nguyên nhân dẫn đến thái độ này là do phản ứng lại lịch sử khắc nghiệt dưới thời Stalin sau đó.

Quan trọng hơn, có một sự lừa dối khủng khiếp bao trùm trong hiện tượng “đổi mới xã hội và văn hóa” thể hiện nổi bật trên bề mặt cuộc sống ở Moskva, Leningrad và một vài thành phố lớn khác. Nói cách khác, quá trình đổi mới này cũng chính là quá trình củng cố chế độ một đảng lãnh đạo mới trên quy mô toàn quốc, sự thể chế hóa bạo lực trên quy mô lớn, sự áp đặt một học thuyết còn đang mơ hồ thành học thuyết chính thống, và sự duy trì việc sử dụng những phương tiện chính trị theo những cách thức tàn bạo nhất. Hai nét nổi bật nhất trong cái di sản tai hại của Lenin là tập trung quyền lực chính trị chỉ vào tay một số người và hành động dựa trên khủng bố [ Trang 19 ]. Cái thứ nhất là kết quả của sự tập trung mọi quyền lực chính trị vào một nhóm đảng viên tiên phong ngày càng bị quan liêu hóa nhằm kiểm soát toàn bộ cơ cấu xã hội, tức là một hệ thống kiểm soát chính trị chặt chẽ có cấp bậc từ trên xuống dưới đối với mọi chức vụ. Sự sẵn sàng sử dụng khủng bố đối với những người chống đối có thật, hoặc tưởng tượng bao gồm cả sự cố ý tạo ra những màn kịch để quy cho những người khác vào việc “phạm tội tập thể” của Lenin nhằm bào chữa cho việc đàn áp xã hội trên quy mô lớn; những cái đó làm cho bạo lực có tổ chức trở thành những phương tiện phổ biến và hợp pháp để giải quyết trước hết là các vấn đề chính trị, rồi đến kinh tế và cuối cùng là những vấn đề xã hội hoặc văn hóa. Sự dựa vào khủng bố cũng thúc đẩy sự cộng sinh nhanh chóng giữa đảng cầm quyền và lực lượng công an mật vụ ( mà Lenin đã thành lập gần như tức thời sau khi cầm quyền ).

Viktor Mikhailovich Chebrikov.
Viktor Mikhailovich Chebrikov – Giám Đốc KGB trong sáu ( 6 ) năm.

Không phải ngẫu nhiên mà hơn 60 năm sau khi Lenin mất, Viktor M. Chebrikov, người cầm đầu bộ máy công an mật của Liên Xô, trong bài phát biểu Tháng Chín, 1987, đã viện dẫn Lenin để bào chữa cho sự khủng bố nông dân Nga bằng cách kết tội họ rằng “bọn Kulak [ nông dân tự do hữu sản ở Nga ] đã rất khinh miệt chính quyền Xô Viết và chuẩn bị bóp chết, giết hại hàng trăm nghìn công nhân” [ Trang 19 ]. Cả trước và sau khi nắm chính quyền, Lenin và những người theo ông, đã nghĩ ra nhiều cách thức phong phú để biện hộ cho việc sử dụng bạo lực và khủng bố hàng loạt nhằm đạt tới mục đích. Từ năm 1901, ông ta nói: “Về nguyên tắc, chúng ta chưa bao giờ từ bỏ khủng bố và không thể từ bỏ nó”.

Ngay sau khi nắm chính quyền, Lenin đã không lãng phí thời gian trong việc biến những quan điểm của ông thành sự thực. Trước đó từ lâu, ông ta dựa vào việc sử dụng bừa bãi bạo lực không những để khủng bố toàn thể xã hội mà còn để loại trừ những phiền hà nhỏ nhất mà chính quyền của ông gặp phải, chính tệ nạn quan liêu mà đảng của ông tạo ra.

Khi sắp nổ ra cuộc cách mạng Bolshevik, Lenin viết trong tác phẩm “Nhà Nước và Cách Mạng” rằng khi ông ta gọi là dân chủ thì từ đó có nghĩa là “việc sử dụng sức mạnh có hệ thống của một giai cấp này chống lại giai cấp khác, của một bộ phận nhân dân này chống lại một bộ phận nhân dân khác”. Ông ta tuyên bố công khai “Định nghĩa khoa học về chuyên chính là: Một quyền lực không bị hạn chế bởi bất cứ pháp luật nào, không bị ràng buộc bởi bất cứ quy tắc nào và trực tiếp dựa vào sức mạnh”.

Trong một sắc lệnh ban hành Tháng Giêng, 1918 nhằm tìm cách xác định một chính sách đối xử với những người chống lại chính quyền Xô Viết, chế độ của Lenin kêu gọi các cơ quan nhà nước “Làm sạch đất nước Nga bằng cách diệt trừ các sâu bọ độc hại”.

Alexander Kerensky.
Alexander Fyodorovich Kerensky là Thủ Tướng của Chính Phủ Lâm Thời Nga La Tư từ Tháng Ba đến Tháng Mười, năm 1917.

Bản thân Lenin thúc giục những người lãnh đạo đảng ở một quận tiến hành “Một cuộc khủng bố rộng lớn tàn nhẫn chống bọn Kulak, thầy tu và Bạch Vệ” và “giam giữ mọi phần tử khả nghi trong một trại tập trung ở ngoài thành phố” [ Bạch Vệ Nga: Belaya Armiya, là tập hợp các chính trị gia đối lập với Lenin phải lưu vong ở nước ngoài sau cách mạng Tháng Mười 1917. Ở đó, họ đã lập nên chính phủ lưu vong do Alexander Kerensky đứng đầu. Bạch Vệ là tên gọi chung của các lực lượng chính trị và quân sự khác nhau, theo các khuynh hướng chính trị khác nhau, lực lượng này chống lại những người Bolshevik và Hồng Quân trong Nội Chiến Nga từ năm 1917 đến năm 1923 ] Lenin không tha thứ bất cứ sự chống đối chính trị nào. Ông lập luận rằng “việc tranh luận bằng súng đạn tốt hơn nhiều so với tranh luận với những luận điểm chống đối.” [ Trang 20 ].

Khủng bố hàng loạt như vậy sớm trở thành phương sách hành chính để giải quyết mọi vấn đề. Đối với những công nhân lười biếng, Lenin chủ trương “bắn ngay tại chỗ một trong số mười người phạm tội chây lười”. Đối với những công nhân ngang ngạnh, ông ta nói: “Những kẻ phá rối kỷ luật đó phải bị bắn”. Đối với một việc liên lạc viên trực điện thoại không tốt, ông ta chỉ thị cho Stalin: “Đe dọa bắn tên ngu xuẩn có trách nhiệm về liên lạc điện thoại mà không biết làm thế nào để cho anh một máy khuếch đại tốt hơn và không biết chắp nối một cuộc liên lạc điện thoại”. Đối với bất cứ sự không tuân lệnh nào, dù là nhỏ, trong đám nông dân, chế độ của Lenin ra nghị quyết là “phải bắt con tin trong nông dân để nếu như tuyết không được cào sạch, họ sẽ bị bắn.” [ Trang 20 ].

Cách nhìn hoang tưởng đó đã sản sinh ra một chế độ cai trị hầu như tách hẳn ra ngoài đời sống dân sự thường tình của xã hội, nó chỉ còn là một sự câu kết giữa các thành phần trong chính quyền độc tài khủng bố. Tuy nhiên, điều điên rồ nhất là cái hệ thống chính trị đó của Lenin đã ở vào tư thế sẵn sàng về tâm lý và chính trị cho một cuộc đối đầu toàn diện với xã hội để thực hiện những tham vọng cũng điên rồ của họ. Những người cầm quyền mới chỉ có thể tự biện hộ về mặt lịch sử bằng cách tấn công trực diện vào xã hội, giết chết, xóa bỏ, thủ tiêu hoàn toàn những cái cũ, nhằm tái tạo nó theo hình ảnh của hệ thống chính trị mới mà bản thân họ là đại diện. Một hệ thống chính trị kiểu Lenin dĩ nhiên, không thể chung sống mãi với một xã hội vốn đa dạng về mặt con người cũng như xã hội có đời sống sống động. Một cuộc chung sống như thế hoặc là sẽ làm mục ruỗng chế độ chính trị, hoặc là sẽ thúc đẩy một số đụng độ giữa hai bên.

Mikhail Sergeyevich Gorbachev.
Mikhail Sergeyevich Gorbachev Lãnh đạo tối cao Thứ Tám và Cuối Cùng của Liên Bang Sô Viết.

Giải pháp duy nhất của Lenin là sáng lập ra một đảng tối cao được phú cho quyền lực nhằm thúc đẩy sự tiêu vong không phải của nhà nước mà là của toàn xã hội, đảng của ông ta được xem như một thực thể tự trị – xã hội. Phương châm hoạt động của nó là: Toàn bộ Xã hội phải bị chà đạp thảm khốc nếu nó không chịu hợp tác với Đảng, không tự làm mình bị hòa tan đi cùng với đảng, và tiếp nhận sự thống trị chính trị toàn diện của quyền lực cộng sản. Logic của Lenin và Đảng của ông ta chính là: để hoàn thành việc làm tan rã hoàn toàn những quan hệ xã hội truyền thống, thì sự tập trung quyền lực của nhà nước phải được đề cao, nhằm biến nhà nước thành công cụ thi hành sứ mạng lịch sử. Nhiều thập kỷ sau, năm 1987 trong những cuộc thảo luận do Gorbachev đưa ra trong cải tổ, một trí thức Xô Viết giữ vai trò lãnh đạo đã công khai đặt câu hỏi: “Có phải Stalin đã tạo ra hệ thống của ông ta hay là chính hệ thống đã tạo ra Stalin?Nhưng nếu là chế độ đã sinh ra Stalin, như câu hỏi ngụ ý, vậy thì chế độ đó là của ai? Đó là Lenin đã tạo ra chế độ và chế độ đó đã tạo ra Stalin và rồi sau đó Stalin lại tạo ra chế độ làm cho những tội ác của Stalin có thể diễn ra.

Hơn nữa, không những Lenin chỉ “tạo ra” kẻ sát nhân khủng khiếp Stalin, mà chủ nghĩa giáo điều về tư tưởng của Lenin và sự không khoan dung chính trị của ông ta đã ngăn cản, ở một mức độ rộng lớn, mọi khả năng sáng tạo khác có thể xuất hiện. Về thực chất, di sản kéo dài của chủ nghĩa Lenin là chủ nghĩa Stalin, và đó là sự lên án lịch sử mạnh mẽ nhất về vai trò của Lenin trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga.

Tác Giả: Từ Liên.

Phần 2: Thư của Vợ Tù Nhân Oan: “THẤT BẠI VĨ ĐẠI – Sự Ra Đời Và Cái Chết Của Chủ Nghĩa Cộng Sản Trong Thế Kỷ XX”. Tác Giả: Từ Liên.

Sau 12 năm ở các trại trên miền Bắc, sau các cuộc tra khảo, và công việc kiệt sức ở các hầm mỏ và khu khai thác gỗ, tất cả được trả bằng 270 rúp!

Trong quá trình tóm tắt cuốn sách, chúng tôi đã gặp bức thư này… Bức thư nằm ở phần cuối trong phần “Những di sản của Stalin“…

Lý do mà chúng tôi muốn giới thiệu bức thư này, như là một phần riêng biệt… bởi những gì mà nội dung của bức thư đã thể hiện…

Chúng tôi nghĩ rằng, có không ít người, đã từng là tù nhân chính trị trong nhà tù của chế độ cộng sản, đã mãn hạn, và còn có rất nhiều người khác, vẫn còn đang bị giam cầm không biết tới ngày nào, tính cho tới thời kỳ hiện tại.

Tuy nhiên, điều đáng quan tâm hơn là, phần lớn những người tù đáng kính này, không phải chỉ có thanh xuân của họ bị hủy hoại, không phải chỉ có cuộc đời của họ bị tàn phá, mà còn có cuộc đời của những người khác, mà những trớ trêu của số phận đã đem họ đến với nhau, và ràng buộc họ lại với nhau theo những cách thức khó chia lìa nhất, nhưng cũng đều bị tan vỡ theo những cách tàn nhẫn khác nhau, theo độ dài của những năm tháng tù đày… Trong số đó có cha mẹ của họ, có những người vợ, và những người con của họ…

Người phụ nữ viết bức thư này, có lẽ cũng giống như bao nhiêu người phụ nữ khác, có người thân phải chịu án tù đày dưới chế độ cộng sản, đã rất dũng cảm và kiên cường. Bà đã đấu tranh nhiều năm không ngừng nghỉ, để tìm kiếm, dù chỉ là một chút công lý cho người chồng của bà… Hành trình tìm kiếm ấy, thật phi thường, và có thể sẽ chạm tới trái tim của nhiều người…

Điều mà người phụ nữ này mong muốn, không phải là những nhà cầm quyền, sẽ bù đắp cho những tù nhân chính trị, những tù nhân lương tâm đã mãn hạn tù, những người đã đánh đổi hầu hết những năm tháng trong cuộc đời để giữ vững niềm tin của họ, bằng những sự giúp đỡ vật chất mà họ lẽ ra đã được hưởng… Quan trọng hơn, bà kêu gọi, những người đang sống trong xã hội vào thời điểm hiện tại, cần phải thức tỉnh, cần phải ý thức về việc mình nên làm gì đó, để giúp đỡ những người mà chúng ta còn đang có thể giúp, trước khi mọi chuyện trở thành quá muộn. Mỗi người nên trang bị cho mình một nhận thức rõ ràng rằng, những việc làm trái pháp luật, phi nhân tính, bóp nghẹt tự do, dân chủ, đi ngược lại với mong muốn của hầu hết thế giới như thế này, sẽ không được phép xảy ra với những thế hệ của tương lai nữa.


Cuối cùng, khi sự phơi bày chủ nghĩa Stalin đã mạnh lên trong năm 1987, báo chí Xô Viết tràn ngập những sự hồi tưởng và hồi ức của các cá nhân. Hồi tưởng sau đây là của một phụ nữ được đăng trên tờ Literaturnaia Gazeta ngày 23/12/1987, tờ báo còn ghi chú là họ đã nhận được khoảng 10.000 bức thư tương tự. Bức thư này chỉ là một trong những điển hình về kinh nghiệm đau đớn của hàng triệu người khác trên khắp nước Nga và khu vực Đông Âu rộng lớn.

Toàn văn bức thư:

Tôi là một bạn đọc quan tâm đến tờ báo của các đồng chí. Tôi đã thích thú đọc tờ báo trong suốt một thời gian dài. Gần đây, có nhiều điều đã được viết ra từ những câu chuyện đã bị lãng quên. Tôi đọc một số bài và trái tim tôi rỉ máu. Tôi nhớ lại cuộc đời của tôi và của chồng tôi.

Thế hệ chúng tôi sống thời kỳ khó khăn của những năm 30 [ 1930s ], sau đó là những năm chiến tranh, rồi tới những năm khó khăn sau chiến tranh.

Ngày nay, những cái chết của Kirov, Tukhachevskiy, Yakir và những nạn nhân vô tội khác đã được viết ra một cách công khai. Điều đó có thể hiểu được: số phận của những người nổi tiếng thường được dư luận công khai chú ý.

Nhưng nếu như ngay cả những người có danh tiếng như vậy cũng không tồn tại được, thì làm sao chúng ta có thể nói gì về số phận của những con người bình thường.

Chồng tôi, A. I. Bogomolov chính là một người bình thường như thế. Ông bị bắt sau cuộc chiến tranh với Phần Lan, bị kết án tử hình, sau đó giảm xuống 10 năm tù, cộng với 5 năm bị tước mất quyền công dân. Ông đã sống 4 năm trong một trại giam ở miền Bắc trong những điều kiện thật kinh khủng. Rồi ông lại vướng vào một vụ giữ bắt khác, một sự kết tội khác với 15 tháng tù giam của tridsadka ( Tờ báo chú thích là không rõ ý tác giả của bức thư ở chỗ này ) trong một xà lim ngầm. Trong cả hai trường hợp, ông ấy đều đã không chịu ký vào biên bản buộc tội. Ông đã ở trong tù tại miền Bắc, tất cả là 12 năm. Sức khỏe của ông vĩnh viễn bị tàn phá, phổi ông bị đông cứng. Sau khi mãn hạn tù, ông sống ở Syktyvkar.

Tôi gặp chồng tôi sau 42 năm xa cách, lần cuối cùng tôi gặp ông là vào năm 1940, khi tôi ẵm đứa con mới sanh đến thăm ông tại nhà tù chuyển tiếp ở Leningrad. Chúng tôi gặp nhau… Cảm tưởng của tôi thật là kinh khủng, nhưng chúng tôi quyết định không chia tay: cảm giác của tôi lúc đó giống như là “Vậy là người được gọi là VỢ của người đàn ông này đã chết rồi”, “Người được tôi gọi là CHỒNG cũng đã chết”, và rồi con cái chúng tôi cũng đã trưởng thành.

Như vậy là trong 5 năm, tôi đã là bác sĩ, y tá, người nuôi dưỡng, là người bạn của anh ấy [ Chúng tôi như đã không còn là vợ chồng nữa ]. Sức khỏe của chồng tôi hoàn toàn bị tàn phá, ông ấy làm việc cho đến khi ông ấy 74 tuổi. Chúng tôi sống trong căn phòng của tôi ở khu tập thể. Bên cạnh phòng chúng tôi, có một người bị bệnh tâm thần. Có những cuộc cãi nhau ầm ĩ, la hét dữ dội và người đàn bà ở phòng bên cạnh chúng tôi đã sử dụng đến nắm đấm để đánh nhau. Chúng tôi không được nhận một căn hộ riêng. Chúng tôi chỉ có hơn 6 mét cho mỗi người.

Nhưng đây là điều tôi muốn nói với ông. Năm 1955, chồng tôi được “phục hồi” [ danh dự ]. Đây là lần thứ hai, lần thứ nhất ông ấy được phục hồi là năm 1940. Khi tôi theo đuổi vụ kiện, và tòa án quân sự khu vực Leningrad đã xem xét lại trường hợp năm 1940 của chồng tôi. Họ đồng ý hủy bỏ bản án vì “thiếu tội danh phạm pháp rõ ràng”. Sau khi được phục hồi, chồng tôi chỉ được lãnh 270 rúp – tức là 2 tháng lương mà ông đã được hưởng đối với chức vụ của mình trước khi xảy ra cuộc chiến tranh với Phần Lan.

Sau 12 năm ở các trại trên miền Bắc, sau các cuộc tra khảo, và công việc kiệt sức ở các hầm mỏ và khu khai thác gỗ, tất cả được trả bằng 270 rúp! Bất cứ lần nào tôi khiếu nại cũng được trả lời rằng họ đã làm điều đó theo luật của năm 1955.

Những quyền lợi của chồng tôi với tư cách một người đã tham gia chiến tranh chỉ được trả lại sau lần phục hồi vừa qua. Hiện nay, ông là thương binh loại 1, bị mù mắt. Tôi đọc cho ông nghe những bài báo và ông ấy khóc. Ông được trợ cấp hưu trí là 113 rúp, trong đó có 15 rúp được cấp cho loại thương binh “được nuôi dưỡng”.

Nhưng tôi đã viết và tôi sẽ còn viết cho các cơ quan chính quyền, vì tôi nghĩ rằng tất cả những cái đó là bất công. Chừng nào tôi còn sống và còn sức khỏe, tôi sẽ còn viết về những người như chồng tôi, đã không được hưởng sự đền bù gì, dù là rất ít, cho tất cả những đau khổ của họ. Họ đã không làm hại gì cho đất nước, nhưng cuộc sống của họ đã bị phá hủy, cuộc sống của gia đình họ đã bị tan vỡ, họ đã bị tước mất sự kính trọng của xã hội, và họ đã không được có quyền chiến đấu, không thể trở thành những thương binh được kính trọng, hoặc những cựu chiến binh đáng tự hào, để được nhận những lời chúc tụng trong những ngày lễ hội kỷ niệm.

Tôi không yêu cầu các đồng chí giúp tôi có được căn hộ. Chúng tôi là những người đã già, và ngay cả khi đồng chí giúp chúng tôi có căn hộ riêng thì cũng là quá muộn đối với chúng tôi. Chồng tôi đã 82 tuổi, gần đây ông ấy hay phải chịu đựng những cơn đau bất thình lình ập đến.

Nhưng tôi yêu cầu đồng chí giúp đỡ tất cả những người vô tội đã đau khổ và đã không thể tự bảo vệ được mình khi họ ‘không được kháng án’.

Ngày nay, người ta đưa lên trên đài phát thanh bài thơ của Tvardovsky ‘Quyền Tưởng Niệm’ [ Right of Rememberance / Right of Memory ]. Tôi nghe mà bàng hoàng, và những dòng nước mắt cũng tuôn ra từ đôi mắt mù lòa của chồng tôi. Trong suốt cuộc đời, ông ấy bao giờ cũng là một công nhân, một đoàn viên thanh niên cộng sản, ông làm việc ở Kuznetskroy, vùng Balkhsh, và bàn tay luôn luôn chai sạn. Ngày nay, tất nhiên ông ấy không thể làm được gì nữa, nhưng ông nhận thức được thời đại mới đã đến và ông tin rằng đó mới chính là một thời đại cách mạng thật sự. Ngày nay, có nhiều điều đã đổi thay, và sẽ là bất công nếu những người đã phải chịu đựng những đau khổ khủng khiếp như vậy lại không còn nữa, trong khi lại có sự quan tâm lớn đến những chiến sĩ lão thành trong chiến tranh và lao động.

Tại sao không xem xét lại đạo luật năm 1955? Tại sao những người đã phải đau khổ vì bị lăng nhục và phải chịu đựng vô số những đau buồn lại không được hưởng bất cứ một sự bù đắp nào, vật chất hoặc tinh thần?

Phải chăng họ đáng trách vì trên thực tế họ đã không có cách nào để tìm kiếm được những bù đắp đó? Tôi yêu cầu đồng chí giúp đỡ tôi và những người còn cần được giúp đỡ.

Ngay cả trong thời kỳ hiện nay, thỉnh thoảng đồng chí lại vẫn nghe thấy người dân nói đến người này hoặc người kia đã là kẻ thù của nhân dân, và đâu có phải là điều vô cớ mà họ lại phải đứng sau những chấn song sắt của nhà tù. Vấn đề ở đây không phải là tiền bồi thường. Vấn đề là xã hội phải có ý thức về bổn phận đối với những người đó…

Valentina Zinovievna Gromova, Leningrad…

Tác Giả: Từ Liên.