Việt Nam những lần “Lỡ” cơ hội phục hưng…

Ngày 24 Tháng Chín, 1951, Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao của Quốc Gia Việt Nam ( Liên Hiệp Pháp, Đông Dương ) Trần Văn Hữu thăm Luân Đôn.
Ngày 24 Tháng Chín, 1951, Thủ Tướng kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao của Quốc Gia Việt Nam ( Liên Hiệp Pháp, Đông Dương ) Trần Văn Hữu thăm Luân Đôn.

Tôi biết có chính quyền Quốc Gia Việt Nam ( Liên Hiệp Pháp, Đông Dương ), tôi biết có cụ Trần Văn Hữu làm Thủ Tướng, tôi biết cụ Clement Attlee làm Thủ Tướng Anh Cát Lợi hậu Đệ Nhị Thế Chiến — nhưng tôi mới biết tấm hình này vào trung tuần Tháng Tư, 2020.

— Nó gây cho tôi nhiều suy nghĩ…

Người Anh Cát Lợi chậm chân không vào xâm lăng được Đông Dương thời kỳ thuộc địa, vì họ còn bận rộn với những vùng thuộc địa khác ở Đông Á. Người Pháp: chưa chiếm được nhiều thuộc địa ở Châu Á, nên đã có nhiều nỗ lực hơn người Anh chen chân vào vùng đất còn ít nhiều độc lập Đông Dương [1].

Thời Tây Sơn Quang Trung còn diện hiện, người Anh cũng đã vào Nam Hà, Bắc Hà tìm hiểu Việt Nam. Rồi thời Nguyễn Phúc Anh mới thống nhất đất nước, sứ bộ Anh Cát Lợi cũng đã nhiều lần vào thăm viếng, mang tặng quà cáp có tính chất xiển dương khoa học kỹ thuật của họ [2].

Nguyễn Vương Phúc Ánh dù có nhiều tiếp xúc với người Tây Dương từ thời niên thiếu, sứ bộ của ông cũng đã đến Paris khi ông còn bị Tây Sơn truy đuổi thừa sống thiếu chết. Ông hiểu rất rõ sức mạnh khoa học kỹ thuật của người Tây Dương.

Nhưng tiếc sau khi khôi phục được Vương nghiệp của tổ tiên ông, ông đã nghe lời các trọng thần cực đoan mạt-Hán-Nho thiển cận mà đẩy người Tây Dương ra rìa, hậu quả tất yếu là khiến cho đất nước phải lâm vào tình trạng thuộc địa [1].

— Thật sự không hiểu được suy nghĩ của Nguyễn Vương Phúc Ánh? Có lẽ cái tầm của ông cũng chỉ là “Bá” — như đã nhiều lần chứng minh trong các cuộc cầu viện ngoại bang đánh nhau với Tây Sơn?

Ông đã có đủ điều kiện để giữ cho Việt Nam được độc lập như Thái Lan!

❀❀❀

Chính trị của người Anh đi trước người Pháp vài thập niên. Họ biết thời kỳ thuộc địa phải chấm dứt, nên họ chuẩn bị tầng lớp lãnh đạo cho các dân tộc bị trị, ngõ hầu khi họ rút đi rồi, các quốc gia này không lâm vào tình trạng hỗn loạn, và cũng lưu lại chút nghĩa tình chính trị với các cựu thuộc địa [3].

Thủ Tướng Clement Attlee thay thế Thủ Tướng chiến tranh Winston Churchill sau Đệ Nhị Thế Chiến. Một trong những trách nhiệm chính của ông là thi hành việc trả độc lập lại cho các thuộc địa.

Ngày 27/01/1947, Thủ Tướng Clement Attlee đã đón tiếp phái đoàn của cụ Aung San, thân phụ của bà Aung San Suu Kyi, để cùng ký kết một bản cam kết trao trả độc lập cho Miến Điện trong năm 1947. Lớn hơn cụ Aung San 32 ( ba mươi hai ) tuổi, nhưng Thủ Tướng Clement Attlee được diễn tả là rất quý trọng và tiếp đón cụ Aung San rất trọng thể, vì nễ vì cái quá trình hoạt động, cũng như sự thông minh và bản lãnh của cụ Aung San [4].

Chống lại người Anh, cụ Aung San đã liên kết với quân Tàu Tưởng, Tàu Mao, rồi Nhật! Nhận thấy đây là những kẻ có thể mang lại hậu quả tàn khốc cho dân tộc cụ, cụ quay lại liên kết với người Anh và đấu tranh bằng một con đường khác [4].

❀❀❀

Người Pháp đã không sáng suốt như người Anh! Dùng tiền viện trợ tái thiết của Mỹ sau Đệ Nhị Thế Chiến để gây chiến tranh ở Đông Dương hòng bấu víu thuộc địa! Bị Tàu Mao đánh tanh banh ở Điện Biên Phủ vẫn chưa sáng mắt. Còn ráng gồng mình đánh Algeria để nhận lấy thất bại thảm hại ở quốc gia này!

— Người Pháp là một tác nhân chính giúp cộng sản tồn tại ở Việt Nam và dẫn đến thảm nạn chia đôi đất nước.

Người Việt Nam — qua cách nhìn của một người đọc lịch sử — ít nhiều đã mang tinh thần quốc gia quá đáng. Thời đó, khát khao độc lập quá mạnh, và không nhận ra được những bất lợi của Việt Nam nên người Việt Nam thẳng tay đuổi người Pháp ra khỏi Việt Nam!

Nếu người Việt Nam lúc đó hiểu được hiểm họa cộng sản và tình hình chính trị của thế giới, cùng chung tay với Pháp duy trì Chính Quyền Liên Hiệp Pháp, chắc cộng sản không có cơ hội ngóc đầu lên được?

Và theo thời cuộc người Pháp cũng phải trả độc lập cho Đông Dương.

Nếu chuyện này đã xảy ra, thì nước Việt Nam độc lập lúc đó là một lãnh thổ toàn vẹn và phồn thịnh:

— Thay vì cái gọi là “chín năm kháng chiến” của ngụy +sản cùng hai mươi mốt năm Việt Cộng Hòa phải tự vệ trước sự xâm lăng của ngụy +sản, Việt Nam đã có được ba mươi ( 30 ) năm hòa bình, xây dựng học thuật, kinh tế?

Với góc độ này, sự hiện diện của người Pháp thêm ba mươi ( 30 ) năm nữa cũng không có gì là hãi hùng?

❀❀❀

Thời cận đại, Việt Nam đã mất quá nhiều cơ hội để phục hưng kiến thiết đất nước. Năm 2020 này, có lẽ một cơ hội nữa đang đến rất gần để Việt Nam có được sự Tự Do thật sự, mong rằng người Việt Nam sẽ đón bắt được cơ hội này — đừng để vuột mất nữa.

30/04/2020.


Tham khảo:

[1] Tạ Chí Đại Trường, Lịch Sử Nội Chiến Ở Việt Nam Từ 1771 Đến 1802, Văn Sử Học xuất bản, Sài Gòn, Việt Nam Cộng Hòa, 1973.

Link: https://drive.google.com/drive/folders/1VPaEwHoBAqPQ_sLBD-Ljlv8eE7ZOjEMQ

[2] Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Bộ Giáo Dục, Trung Tâm Học Liệu Xuất Bản, Sài Gòn, Việt Nam Cộng Hòa, 1971.

[3] Ngô Đình Nhu và các Cộng Sự, Chính Đề Việt Nam, bản PDF đánh máy lại ở hải ngoại. Không phải bản của nhà Xuất Bản Đồng Nai, Việt Nam Cộng Hòa.

Link: https://drive.google.com/drive/folders/1VPaEwHoBAqPQ_sLBD-Ljlv8eE7ZOjEMQ

Vấn đề lãnh đạo ở thuộc địa, được tóm tắc: “Chính Đề Việt Nam” ( + ) luận Truyền Thừa Lãnh Đạo

[4] Jesper Bengtsson, Aung San Suu Kyi Strugggle For Freedom, HarperCollins Publisher, Australia, 2011.

“Lịch Sử” Cải Cách chữ Tàu ( * ) và Bài Học cho Chúng Ta!

Xin được nói trước, tôi chỉ “nhai lại” theo hiểu biết hạn hẹp, và trí nhớ xa xăm thuở trước, khi đọc sách của các học giả Việt Nam: không có ý làm tài liệu, nên không có dẫn chứng.

Nguồn tham khảo duy nhất của tôi là — https://en.wikipedia.org/wiki/Simplified_Chinese_characters; bài viết này có nhiều điều trùng hợp với trí nhớ của tôi.

*
* *

Chữ Tàu cải cách, hay chữ Tàu giản thể thường được cho là do Mao Trạch Đông khởi xướng trong cái phong trào gọi là “Cách Mạng Văn Hóa”. Nhưng thật sự, Đông chỉ tiếp tục công trình cải cách dỡ dang xảy ra trong những thời kỳ trước đó của Tàu.

Cuộc cải cách của Đông cũng rất hệ thống và hợp logic:

— Thí dụ, một số nét phức tạp cứ lập đi lập lại trong nhiều bộ, và nhiều chữ, Đông cho bỏ những nét phức tạp này, và thay vào đó bằng một nét đơn giản khác.

Cho nên chữ của Đông được gọi là “giản thể”, trong khi chữ cũ được gọi là “phồn thể”!

Cải cách sang giản thể của những thập niên 1950 và 1960 là nhắm vào việc đơn giản hóa chữ viết, để có nhiều người biết đọc biết viết hơn. Và việc cải cách này được áp dụng ở Tàu Lục Địa và Singapore ( Tân Gia Ba ).

Đã có một cuộc cải cách khác diễn ra vào năm 1977, nhưng vào năm 1986 thì đã bỏ không áp dụng cải cách của năm 1977.

Vào năm 2009, Tàu cộng đã trưng cầu dân ý, và 8,105 chữ giản thể không thay đổi đã được chính thức công nhận vào ngày 5, Tháng Sáu, 2013.

Như vậy chúng ta có thể thấy, Đông cải cách chữ viết vì có những nhu cầu đòi hỏi thiết thực và thiết yếu. Đông không cải cách chữ viết vì muốn hủy hoại chữ đã có sẵn.

HAY NÓI MỘT CÁCH KHÁC, CHỮ PHỒN THỂ QUÁ KHÓ HỌC!

*
* *

Nhà văn Lỗ Tấn.
Nhà văn Lỗ Tấn.

Chữ Tàu hình như luôn luôn trong tình trạng thay đổi. Người ta có bằng chứng, vào đời nhà Tần, 221-206 trước Công Nguyên, chữ giản thể đã được sử dụng.

Và vào năm 1909, một cuộc cải cách chữ Viết đã được đề ra, và người khởi xướng kêu gọi đưa loại chữ này vào giáo dục. Cuộc khởi nghĩa Ngày Bốn Tháng Tư 1919 nhằm hiện đại hóa nước Tàu, họ đã kêu gọi hủy bỏ chữ phồn thể hoặc là HOÀN TOÀN SỬ DỤNG MẪU TỰ LATIN!

Vị lãnh đạo của khởi nghĩa ngày gọi chữ Tàu cổ là “ma trâu”, “rắn thần”!

Và nhà văn nổi tiếng thời đó, Lỗ Tấn ( Lun Xun ) viết:

“IF CHINESE CHARACTERS ARE NOT DESTROYED, THEN CHINA WILL DIE.” (汉字不灭,中国必亡)

“NẾU CHỮ TÀU KHÔNG ĐƯỢC HỦY BỎ, THÌ NƯỚC TÀU SẼ CHẾT.”

Những người thuộc cách tả của Tàu cộng đã gắng công khởi xướng phong trào sử dụng chữ Hanyu Pinyin ( Hanyu là tính thuộc Hán ) hay là chữ Hán theo mẫu tự Latin nhưng phong trào này không được ủng hộ!

Ở Hồng Kông, thập niên 1930, một nhóm nhỏ đã cố công khởi xướng sử dụng mẫu tự Latin, nhưng họ thất bại, và Hồng Kông hiện tại vẫn sử dụng chữ phồn thể.

Ở Nhật Bản, sau Đệ Nhị Thế Chiến, họ cũng đã đơn giản hóa những chữ Tàu ( kanji ) được sử dụng trong tiếng Nhật. Nhưng nếu so với Tàu, thì cuộc cải cách này không đáng kể.

*
* *

Chúng ta thấy gì từ đại khối những dân tộc phải sử dụng chữ Tàu:

1. Họ luôn gặp khó khăn và phải liên tục cải cách.

2. Họ luôn luôn mơ ước một hệ thống chữ viết giản tiện hơn: họ mơ ước sử dụng mẫu tự Latin. Giấc mơ của họ chưa thành và có thể sẽ không thành.

3. Họ tồn tại hai hệ thống chữ viết: những người sử dụng chữ Tàu ở quốc gia này có nguy cơ không hiểu được người Tàu ở một quốc gia khác viết gì, dù đều là chữ Tàu!

Ngẫm lại chúng ta:

— Tiền nhân của chúng ta đã quá sáng suốt khi dang tay đón nhận món quà chữ viết mẫu tự Latin vô giá từ các vị giáo sỹ Châu Âu.

Trong “Chính Đề Việt Nam” ( bản PDF, không phải chính bản của Nhà Xuất Bản Đồng Nai, Nam Việt Nam, 1968 ), ( các ) tác giả luận:

— Chúng ta đã may mắn có chữ Quốc Chữ, nên việc học tiếng Anh, tiếng Pháp của chúng ta rất dễ dàng.

Nhìn chung, ngày hôm nay, khả năng tiếng Anh, tiếng Pháp của đại đa số giới trẻ ở Việt Nam quá yếu so với các quốc gia trong khu vực, thí dụ như Malaysia. Nhưng điều này là vì chúng ta sống một môi trường sa đọa rách nát về mọi mặt, sự phát triển của chúng ta bị giới hạn bởi cái môi trường đó.

Một khi chúng ta tạo được môi trường mới, tôi xin được mượn một thành ngữ tiếng Anh để diễn tả những gì chúng ta có thể đạt được: “The sky is the limit!”

Điều sau cùng, chữ Quốc Ngữ dù chưa hoàn hảo, nhưng so với chữ Tàu vẫn là một hệ thống chữ viết ổn định, dễ học.

Trách nhiệm của chúng ta là ngày càng củng cố hệ thống chữ viết này.

TRÁCH NHIỆM CỦA CHÚNG TA LÀ PHẢI TIÊU DIỆT NHỮNG ĐỨA NÀO MUỐN HỦY HOẠI CHỮ QUỐC NGỮ CỦA CHÚNG TA, CHỮ QUỐC NGỮ CỦA CON EM CHÚNG TA.


( * ) Chữ Tàu hay chữ vuông được các vị, đặc biệt là Linh Mụch Triết Gia Lương Kim Định cho là nòi du mục Hán đã ăn cướp của dòng Bách Việt.

Đứng trước một khối Tàu 1/5 dân số thế giới hiện giờ, chắc chúng ta chưa đủ khả năng để với họ về vấn đề này.

Mặc dù trong số lượng người khổng lồ này, một phần rất đông là con dân Bách Việt đã quên hẳn nòi giống của họ.

04/09/2018.

“Bấm Chuông”, “Xe Điện Ngầm”: tính Chuẩn Xác Trong Tiếng Việt và Tây Phương Hóa

Gần cuối “Chính Đề Việt Nam” ( 1 ), ( các ) tác giả đưa ra kết luận rằng, người Tây Phương thông tuệ vì họ chuẩn xác trong suy nghĩ và lý trí, qua thời Trung Cổ tâm tối, các ngôn ngữ của họ đã được độ chính xác, giúp diễn tả tư tưởng, suy nghĩ của họ khúc chiết minh bạch.

Và hơn nữa, các ngôn ngữ của họ cũng đạt được sự trừu tượng cao độ, giúp họ có thể dễ dàng diễn tả những vấn đề phức tạp.

Tiếng Việt, theo ( các ) tác giả, là ngôn ngữ thiên về cảm xúc, người nghe, người đọc phải vận dụng trí tưởng tượng để hiểu. Do đó, một câu nói, một câu văn có thể bị hiểu qua nhiều nghĩa khác nhau.

— Và dĩ nhiên, ngôn ngữ, chữ viết là phương tiện chúng ta sử dụng để diễn tả tư tưởng, suy nghĩ của mình.

Do đó, nếu ngôn ngữ thiếu độ chính xác cần thiết, thì chúng ta không thể diễn tả được chính xác tư tưởng, suy nghĩ của chúng ta.

( Các ) tác giả gợi ý: chúng ta cần phải suy nghĩ để chấn chỉnh lại những nhược điểm trong tiếng Việt hiện đại. Và ( các ) tác giả cũng đưa ra một gợi ý nữa: tìm cách trừu tượng hóa tiếng Việt. ( Các ) tác giả cũng xác định: đây là lãnh vực chuyên môn. Dành cho người chuyên môn.

Suy nghĩ phải có ngăn nắp, lý trí phải có hệ thống, ngôn ngữ phải chuẩn xác, theo ( các ) tác giả, thì chúng ta mới có thể bắt đầu cuộc Tây Phương hóa để phát triển dân tộc.

Sự kiện chúng ta sử dụng ký tự Latin thành công, là một bước Tây Phương hóa mà các quốc gia trong vùng chưa làm được.

( Trình độ ngoại ngữ ở Việt Nam bây giờ có lẽ thua các quốc gia trong vùng, thì đây là một bước lùi vậy. )

*
* *

Mấy bữa trước xem live stream của mấy anh ở Arizona, Hoa Kỳ; mấy anh bấm cái “intercom” mà mấy anh quen miệng gọi bấm “chuông”.

Cái intercom, khi bấm, người trong nhà và chúng ta có thể nói chuyện được với nhau, giống giống như điện thoại.

Có thể sử intercom như là cái chuông, nhưng không thể sử dụng một cái chuông như là một cái intercom.

— Dù vì bất cứ lý do gì, đây là một thí dụ tiếng Việt và suy nghĩ của chúng ta thiếu chuẩn xác và khúc chiết.

Cũng qua một live stream của một cô rời Việt Nam chưa lâu, và đang ở Bắc Âu, cô đón xe “lửa” / “điện” ở một ga dưới lòng đất, cô bảo đang đón “xe điện ngầm”.

Bất cứ một người Việt nào cũng sẽ nói như vậy! Và giữa chúng ta với nhau, chúng ta hiểu ngầm đó là xe “điện” / “lửa” đang chạy ngang qua đường rầy hay nhà ga dưới lòng đất / lòng biển!

Vì thật sự xe không có “ngầm” chỉ có đường rầy mới “ngầm” mà thôi.

Quả thật ( các ) tác giả của “Chính Đề Việt Nam” quá thâm thúy!

— Chúng ta không có một cách diễn đạt chính xác cho một phương tiện đã có lâu đời như thế này.

Ngôn ngữ của chúng ta cần chấn chỉnh như ( các ) tác giả đã gợi ý.


( 1 ) “Chính Đề Việt Nam” — bản PDF, không phải chính bản của Nhà Xuất Bản Đồng Nai, Nam Việt Nam, 1968.

14/03/2018

Việt Nam: Cơ Hội Thứ Ba ( ? ) và Mâu Thuẫn của các Cường Quốc

Theo lịch sử “Chính Đề Việt Nam” (1) kết luận, Việt Nam đã không bắt được hai cơ hội quý giá để phát triển dân tộc:

  1. Cơ hội thứ nhất — khi Tây Phương bắt đầu vào Châu Á. Và bắt đầu dòm ngó các lãnh thổ trong vùng. Người Nhật đã nắm được cơ hội, hiểu được sự yếu kém của dân tộc họ so với Tây Phương, nên đã tận dụng cơ hội học hỏi Tây Phương và Tây Phương hóa.Và người Nhật cũng biết tận dụng những mâu thuẫn của các quốc gia Tây Phương để thủ lợi cho họ. Thí dụ, Tây Phương cạnh tranh về ảnh hưởng ở Nhật, người Nhật đề nghị chuyên viên Tây Phương dạy kỹ thuật quốc phòng cho dân Nhật. Tây Phương cho phép chuyên viên của làm vậy, vì quyền lợi kinh tế và những ảnh hưởng khác.
  2. Cơ hội thứ hai — sau Đệ Nhị Thế Chiến. Các quốc gia thuộc địa cũ đã tận dụng những sự giúp đỡ về kinh tế, kỹ thuật… nói chung là về mọi mặt để phát triển quốc gia, phát triển dân tộc.Những quốc gia biết tận dụng cơ hội này đều đã thành công, vì đó là những quốc gia nhỏ, dù họ có phát triển cực thịnh, cũng không phải là mối đe dọa cho thế giới. Nên sự phát triển của họ không bị ngăn cản.

    Các quốc gia mới độc lập này, cũng đã biết tận dụng các mâu thuẫn của các đại cường để thủ lợi cho họ.

Việt Nam đã mất cơ hội này. Người Nhật trả tự do, cộng sản tranh giành quyền lãnh đạo, mời Pháp trở lại để có kẻ thù, hòng hợp thức hóa tính chính danh của chúng — “chín năm kháng chiến” ( lẽ ra không có ), rồi chia đôi đất nước ( lẽ ra cũng không bị. )

Tóm lại Việt Nam mất cơ hội thứ hai.

“Chính Đề Việt Nam” không dự đoán cơ hội thứ ba. ( Các ) tác giả chỉ đưa ra lược đồ kiến thiết lại đất nước như trong lời kết.

*
* *

Biển Đông luôn là nơi tranh giành ảnh hưởng của các cường quốc. Đó là điểm tốt và cũng là điểm bất lợi cho Việt Nam.

Nếu biết tận dụng các mâu thuẫn của các đại cường về Biển Đông, chắc chắn nó sẽ luôn là điểm lợi cho Việt Nam: lấy sức người làm sức ta!

Việt cộng sẽ chết trong tương lai rất gần.

Hàng mấy năm nay, Hoa Kỳ đang có những hành động tạo ảnh hưởng tốt đẹp trong lòng dân Việt Nam. Và người Việt Nam hình như cũng rất hoan nghênh Hoa Kỳ:

  1. Mấy năm trước, một chiếc vận tải cơ Hercules khổng lồ mang vật dụng cùng những công binh Hoa Kỳ vào xây trường tiểu học ở Quảng Ngãi. Dân chúng ra phụ, cười đùa với “lính Mỹ” om xòm: trông mọi người, Việt lẫn Mỹ, rất hạnh phúc.( Thật sự không hiểu: một anh chàng lính Mỹ to đùng mang boot de saut cầm chổi chà quét sân. Sao không kêu một chú nhóc Việt Nam nào đó quét? )
  2. Cũng mấy năm trước, “lính Mỹ” chơi bóng chuyền với bộ đội hải quân, dân chúng xem vui vẻ lắm.
  3. Đã mấy lần rồi nhà thương nổi của Hoa Kỳ đã vào cảng Việt Nam trị bệnh miễn phí. Và Tháng Ba 2018 này lại sắp đỗ lại thêm ba tháng nữa.
  4. Các chàng đặc chủng Hoa Kỳ nghênh ngang trên phố phường Việt Nam. Diễn nghênh ngang, khoe bắp thịt, khoe đồ chơi súng đạn v.v… có vẻ hơi quá lố — phản ứng của dân Việt Nam nói chung, và của dân Việt Nam mạng nói riêng rất khoái chí.– Thằng tàu mà hành động vậy, dân Việt Nam đã loạn rồi.
  5. Quan trọng hơn cả, Tổng Thống Trump, trong APEC 2017 đã khẳng định: Hoa Kỳ cần đồng minh cường liệt, cần những người bạn biết tôn trọng quyền lợi song phương; và Hoa Kỳ không vào Châu Á để thống trị bất cứ ai.Việt cộng chỉ là những đứa ăn mày tay sai.

    Việt cộng tiêu, Việt Nam Mới bắt buộc phải có những hành động thực tiễn chứng tỏ mình đáng tin cậy hòng đứng vào hàng ngũ Tây Phương: vận dụng sức người phát triển dân tộc, kiến thiết quốc gia — như lịch sử đã chứng minh với các quốc gia khác.

*
* *

Lòng người Việt Nam đã sẵn sàng dẹp cộng sản. Lòng người Việt Nam hướng về Tây Phương ( dù chỉ ở giai đoạn vật chất ). Yếu tố “nhân” đã có.

Tàu cộng, như “Chính Đề Việt Nam” đã luận, khi phát triển thành công sẽ là một đe dọa cho thế giới. Hoa Kỳ và các đồng minh đại cường cần phải khống chế tàu cộng, Hoa Kỳ và các đồng minh đại cường cần hải lộ Biển Đông không bị đe dọa. Đó là thiên thời cho Việt Nam.

Vị trí địa lý của Việt Nam là con dao hai lưỡi cho dân Việt. Biết tận dụng sẽ là điểm lợi. Xét ra thì yếu tố địa lý cũng có.

Vấn đề là khi cộng sản tiêu rồi: người Việt phải biết nắm bắt cơ hội vàng ngọc này. Đừng để mất như hai lần trước.

Nếu phải đợi thêm mấy trăm năm nữa, chủng Việt cuối cùng sẽ tiêu vong.


(1) Bản PDF, không phải chính bản của Nhà Xuất Bản Đồng Nai, Nam Việt Nam, 1968.

04/03/2018.

 

“Chính Đề Việt Nam” (+) sau 60 ( sáu mươi ) năm, thu nhập đầu người của Việt Nam tuột 2600% ( hai ngàn sáu trăm ) so với Nhật Bản!

per-capita-income

“Chính Đề Việt Nam” liệt thu nhập đầu người của Việt Nam, Nhật, Ấn Độ và Tàu mỗi năm như sau:

Việt Nam: $USD 60.00 ( sáu mươi đô la Mỹ một năm )
Nhật: $USD 100.00 ( một trăm đô la Mỹ một năm )
Ấn Độ: $USD 57.00 ( năm mươi bảy đô la Mỹ một năm )
Tàu: $USD 27.00 ( hai mươi bảy đô la Mỹ một năm )

Và, “Chính Đề Việt Nam” cũng bình thêm rằng:

Mức thu nhập đầu người mỗi năm dưới $USD 100.00 được cho là chưa mở mang.
Từ $USD 100.00 đến $USD 300.00 mỗi năm là kém mở mang.
Từ $USD 300.00 đến $USD 500.00 mỗi năm là khá mở mang.
Từ $USD 500.00 đến $USD 800.00 mỗi năm là đã mở mang
$USD 800.00+ mỗi năm là mở mang đến cao độ chỉ có Mỹ, Anh, Thụy Sỹ và một vài nước Bắc Âu là đạt được.

“Chính Đề Việt Nam” được xuất bản năm 1965, do Nhà Xuất Bản Đồng Nai phát hành. Nên những số liệu có thể tạm xem là số liệu của những năm 1960.

Theo https://tradingeconomics.com/, thì vào năm 2016, mức thu nhập đầu người mỗi năm của các quốc gia đã liệt kê là:

Việt Nam: $USD 1,770.00 ( một ngàn bảy trăm bảy mươi đô la Mỹ )
Nhật: $USD 47,607.70 ( bốn mươi bảy ngàn sáu trăm bảy đô la Mỹ )
Ấn Độ: $USD 1,861.50 ( một ngàn tám trăm sau mươi một đô la Mỹ )
Tàu: $USD 6,894.5 ( sáu ngàn tám trăm chín mươi bốn đô la Mỹ )

Xem chi tiết cho mỗi quốc gia ở các trang sau:

Việt Nam: https://tradingeconomics.com/vietnam/gdp-per-capita
Nhật: https://tradingeconomics.com/japan/gdp-per-capita
Ấn Độ: https://tradingeconomics.com/india/gdp-per-capita
Tàu: https://tradingeconomics.com/china/gdp-per-capita

Trong bốn quốc gia, thời 1960s, Việt Nam Cộng Hòa chỉ thua có Nhật: và thua ở một tỷ lệ không quá kinh hãi. Sau 60 ( sáu mươi ) năm thì toàn cõi Việt Nam thua Nhật ở một tỷ lệ ngoài sức tưởng tượng:

1960s: 100.00 / 60.00 = 1.67
2016: 47607.70 / 1770.00 = 26.89

Tưởng cũng nên nói thêm, bàn về tiềm lực kinh tế của Nam Việt Nam, phần nông nghiệp, sách này chép:

– Mức sản xuất của Đồng Bằng Sông Cửu Long có thể tăng hai trăm phần trăm.

– Đất đai cao nguyên có thể trở thành những trại chăn nuôi gia súc.

– Thủy lực Đông Tây Nam Bộ chưa được khai thác đúng mức.

– Và nhiều tài sản khác mà Nam Việt Nam đã có được: trong đó có cả dãy bờ biển!

( Bây giờ thì tanh bành hết rồi! )

Và phân tích thiệt hơn: “Chính Đề Việt Nam” cũng kết luận: “thống nhất” là tự sát!

*
* *

(
Ấn Độ là một quốc gia khá buồn cười. Họ có khả năng nguyên tử ( tự lực ), có khả năng vệ tinh ( tự lực ), IT thì các chuyên gia của họ không thua thiên hạ v.v… Nhưng trong cái khối lượng dân số khổng lồ của họ các thành phần dân số ( geodemographic ) rất phức tạp: vẫn còn những thầy phù thủy trị đau ruột thừa bằng cách gọi thần linh về đuổi tà ma cô hồn các đảng đi chỗ khác… Các dân tộc thiểu số ở những vùng xa xôi hẻo lánh vẫn còn hái rau hái cỏ ăn với sữa / sửa lạc đà v.v…

Tuy sau 60 ( sáu mươi ) năm, thu nhập đầu người của Ấn Độ vẫn không tăng, nhưng nhìn chung về chính trị, xã hội, khoa học kỹ thuật thì Ấn Độ là một quốc gia đánh kính.

Larry Diamond, trong THE SPIRIT OF DEMOCRACY – The Struggle To Build Free Societies THROUGHOUT THE WORLD, Henry Holt and Company, LLC, New York, U.S.A., 2008 — đã gọi Ấn Độ là:

— Quốc gia đông dân có nền dân chủ vững mạnh vào bậc nhất Châu Á.
)


(+) “Chính Đề Việt Nam” — bản PDF, không phải là chính bản 1965.

26/01/2018.

“Chính Đề Việt Nam” ( + ) luận Truyền Thừa Lãnh Đạo

“Chính Đề Việt Nam” kết luận rằng sức mạnh của nước Anh, nước Mỹ mà chúng ta mục kích được ngày hôm nay là do họ đã duy trì được sự lãnh đạo không đứt đoạn của hơn 200 ( hai trăm ) năm: có nghĩa là chính quyền của họ không bị đứt đoạn, sự thay đổi chính quyền chỉ qua một cuộc bầu cử.

Một chính quyền mới của Anh Cát Lợi lên nắm quyền, thì tức khắc sau lưng là hậu thuẫn của 400 ( bốn trăm ) năm kinh nghiệm và văn khố làm hậu thuẫn. Sách kết luận “đó là một sức mạnh phi thường”!

— Sự truyền thừa lãnh đạo còn có nghĩa là những bí quyết kinh bang tế thế sẽ không bao giờ bị mai một, nó truyền từ đời này sang đời khác, đời sau có khi phát triển thêm, lợi hại hơn đời trước: do đó quốc gia càng ngày càng mạnh.

Liên hệ đến tình trạng Việt Nam, “Chính Đề Việt Nam” so sánh: thật là kinh khủng trong khi một nhà lãnh đạo Việt Nam không có bao nhiêu chiều dài lẫn dầy của văn khố làm hậu thuẫn, thì Anh Cát Lợi có 400 ( bốn trăm ) năm!

Về lãnh đạo, “Chính Đề Việt Nam” quan sát một nhà lãnh đạo giỏi, luôn luôn hành động theo một triết lý chính trị mà họ đã suy gẫm lâu ngày, trước khi mang ra hành động. Nếu đúc kết triết thuyết của họ không giải quyết được thực tế, thì người lãnh đạo phải thay đổi tư tưởng, hoặc là bị thay đổi.


(+) “Chính Đề Việt Nam” — bản PDF, không phải là chính bản 1965.’

*
* *

Đọc, không khỏi không ghĩ đến tình tình Việt Nam hiện tại và Nội Các của cụ Lệ Thần Trần Trọng Kim, 1945 — tập hợp của những “intellectual elites” đương thời:

Kiến thức của họ là kiến thức Hàn Lâm. Mà các vị ấy đã thất bại: vì đơn giản các vị không phải là người được đào tạo để lãnh đạo quốc gia!

“Intellectual elites” đẳng Hàn Lâm của thời 2018 hầu như là không có… ngụy cộng nó diệt sạch lâu rồi!

Lãnh đạo quốc gia — trong những gương mặt đấu tranh ở Việt Nam, thật sự chưa thấy được vị nào có tầm kinh bang tế thế?

Người ở hải ngoại ư? Lại càng không!

Người lãnh đạo Việt Nam hậu ngụy cộng, phải là người nằm gai nếm mật, chia xương sẻ máu trên Đất Việt Nam!

Họ phải là những người sống và chết trên Mảnh Đất đó!

*
* *

Truyền thừa lãnh đạo chúng ta cứ luôn bị gián đoạn từ hàng mấy trăm năm nay — nhà Nguyễn “thống nhất” đất nước chưa đến nữa thế kỷ, thì phải đối đầu với họa xâm lăng của Tây Phương.

Và nhà Nguyễn đã không giữ được nước!

Đừng trách các Vua Nguyễn và các vị tôi lương đống — sự yếu kém của các vị ấy chắc gì đã yếu kém hơn chúng ta ngày hôm nay?

Các vị ấy còn hơn hẳn chúng ta một bậc: Đạo Đức và Tinh Thần, dù trong thời Mạt Nho!

(
Đạo Đức và Tinh Thần —

Cụ Phan Thanh Giản đã tự sát vì làm mất đất!

Và tám chữ của ông: “Thất thân chi nữ, hà vĩ vi trinh” đã khiến tiến sỹ Phan Hiển Đạo cảm thấy nhục nhã, tự sát!
)

*
* *

Suy nghĩ vậy, nhưng chúng ta ngày hôm nay không phải là những kẻ vô “đạo”. Khó khăn hậu ngụy cộng phải tập trung sức lực giải quyết. Di sản thành công kháng cự lại sức đồng hóa mãnh liệt của khối người phương Bắc sẽ giúp dân tộc chúng ta phục hưng.

15/01/2017

Cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Châu Trinh trong “Chính Đề Việt Nam” (+)

Chủ trương của cụ Phan Bội Châu là đánh Pháp bằng vũ lực.

Cụ Phan Châu Trinh chủ trương hợp tác với để canh tân đất nước.

“Chính Đề Việt Nam” luận Tây Phương hóa qua hai cách nhìn: chủ động và thụ động.

Chủ động là trường hợp của Nga; và sau đó là trường hợp của Nhật.

Chủ động Tây Phương hóa diễn ra một cách có hệ thống và có tổ chức — kết quả cuối cùng là chế ngự được khoa học Tây Phương. Nghĩa là không còn đeo đuôi họ nữa, mà chủ động được sáng tạo và phát minh.

( Một điểm nữa, Tây Phương hóa không đánh mất dân tộc tính. )

Thụ động là trường hợp của Việt Nam: bắt chước cách ăn, cách mặc v.v… không phải Tây Phương hóa; đó chỉ là sự bắt chước vụng về, không dẫn đến đâu và có hại cho dân tộc.

Khi Nga và Nhật chủ động Tây Phương hóa, họ đang ở trong trạng thái độc lập, làm chủ được vận mệnh quốc gia của mình.

Dựa trên hai bài học lịch sử đó, “Chính Đề Việt Nam” kết luận: chủ trương của cụ Phan Châu Trinh trước sau gì cũng thất bại. Chủ trương của cụ Phan Bội Châu đúng đắn: độc lập tự chủ phải là điều kiện đầu tiên để canh tân đất nước.

*
* *

Cho nên thoát cộng là con đường duy nhất cho tương lai Việt Nam.


(+) “Chính Đề Việt Nam” — bản PDF, không phải là chính bản 1965.

07/01/2018

Lúng túng với cái “Độc Lập Tự Nhiên Có” 1945 qua Lăng Kính “Chính Đề Việt Nam” ( + )

“1945 Lạc Đường Vào Lịch Sử” của văn hào Nguyễn Mạnh Côn diễn tả cái tình trạng không sẵng sàng của các đảng phái quốc gia khi được người Nhật trao trả lại độc lập từ tay người Pháp.

Chương trình “Mạn Đàm Lịch Sử” của cựu Đại Sứ Bùi Diễm và kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa càng minh xác lại những gì văn hào Nguyễn Mạnh Côn đã viết.

— Cụ Trần Trọng Kim và các vị trí thức khác không có khả năng làm chính trị, không có khả năng quản lý một quốc gia độc lập!

Các vị từ Nguyễn Mạnh Côn, cho đến Đại Sứ Bùi Diễm, cụ Nguyễn Xuân Nghĩa không ai nhắc đến nội các nào của Cựu Hoàng Bảo Đại.

Tóm lại người quốc gia thiếu người có khả năng lãnh đạo.

Trong khi cộng sản thì được sự chống lưng từ quốc tế cộng sản: kinh nghiệm cướp chính quyền đã được hệ thống hóa.

*
* *

“Chính Đề Việt Nam” phân tích chính sách thực dân thành hai loại:

1. Của đế quốc Anh — di dân và khai thác.

2. Của thực dân Pháp, Hòa Lan, Bỉ v.v… chỉ chú trọng việc khai thác.

Di dân của thành là đưa người Anh sang ở vĩnh viễn. Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan là thí dụ. Mẫu quốc Anh Cát Lợi luôn hiện diện trên các thuộc địa này: quốc kỳ Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan có quốc kỳ của Mẫu Quốc ở trên đó.

Khai thác — là khai thác tài nguyên. Đế quốc Anh biết có ngày họ sẽ phải rút lui, trả lại tự do. Cho nên họ hoặch định những chính sách cho hàng mấy chục năm trong tương lai.

Xem như lưu lại chút tình cảm với thuộc địa — họ đã ra sức đào tạo những con người bản xứ khả dĩ có thể thay thế được họ khi họ ra đi.

Người Pháp thì hoàn toàn không. Họ không đào tạo những người bản xứ có thể thay thế họ và họ còn tìm cách nhận chìm những người bản xứ có khả năng lãnh đạo.

Việt Nam là thuộc địa của Pháp.

Phải chăng phân tích trên của “Chính Đề Việt Nam” ít nhiều lý giải được tình trạng lúng túng trước cái “Độc Lập Tự Nhiên Có” của 1945?


(+) “Chính Đề Việt Nam” — bản PDF, không phải là chính bản 1965.

24/12/2017