Phần 5/5: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Phần cuối. Tác Giả: Từ Liên.

Tuy nhiên, tôi tin rằng bất cứ một người nào dù sống ở đâu trên trái đất này, tự nhận mình là người Việt Nam, đều có chung mong đợi một ngày đất nước phát triển, nền dân chủ được thực thi rộng rãi trong đời sống xã hội ở Việt Nam. Khi đó, những người Việt Nam có thể ngẩng cao đầu bước đi với niềm tự hào là công dân của một quốc gia tự do, có thể tự tin cầm một cuốn hộ chiếu trên tay mà không cảm thấy hổ nhục, có thể tự giới thiệu mình là người Việt Nam mà không cảm thấy ngại ngùng trước con mắt của bạn bè thế giới.

Ở những phần trước, tôi đã tóm tắt và phân tích những lập luận của GS Haykek về 4 luận điểm : (1) Sự xuất hiện của các thể chế độc tài toàn trị và Bản chất của những con người lãnh đạo ở những thể chế đó; (2) Tại sao các thể chế độc tài toàn trị không bao giờ có thể thực hiện lời hứa hoang đường của họ về tự do và thịnh vượng cho những cộng đồng dân cư mà họ cai trị; (3) Người dân của những nước sống dưới chế độ độc tài cũng cần tự chịu trách nhiệm vì đã cho phép chế độ độc tài cai trị và áp bức họ; (4) Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa phát xít chỉ là hai tên gọi khác nhau của Chủ nghĩa độc tài toàn trị.

Trong phần cuối cùng này, tôi xin tóm tắt và phân tích những GỢI Ý của GS Hayek về những biện pháp mà những người dân đang sống dưới chế độc độc tài toàn trị có thể suy nghĩ, cân nhắc, để tự quyết định xem mình có nên rời bỏ Con Đường Nô Lệ để xây dựng Con Đường Tự Do cho bản thân mình và dân tộc mình.

Cá nhân tôi cho rằng đây là một trong những chương quan trọng nhất của tác phẩm Đường Về Nô Lệ. Nếu như vì một lý do nào đó mà chương này đã bị khiếm khuyết đi, thì có lẽ tác phẩm này sẽ không được coi là hoàn thiện, có ý nghĩa sâu sắc, và khó có thể có sức sống mãnh liệt như vậy trong suốt 80 năm qua.

Dù chỉ là những “gợi ý” từ một trí thúc lỗi lạc, nhìn từ góc độ của một người Phương Tây, và đối tượng nhắm tới là những quốc gia Châu Âu thời kỳ hậu Thế Chiến Thứ II, nhưng tôi tin rằng mỗi người dân trên thế giới này đều có thể tìm ra một vài điểm đồng điệu nào đó. Từ góc độ của mình, từ hoàn cảnh của mình, từ thực tiễn xã hội của mình, mỗi người có thể sẽ tìm ra những cách thức riêng để đóng góp cho nền tự do của bản thân, cũng như cộng đồng và dân tộc.


Từ thuở hồng hoang, con người đã phục tùng những hiện tượng tự nhiên mà họ tin rằng do những đấng siêu nhiên toàn năng tạo ra. Họ đã tôn sùng những vị thần mà họ không thể thấy hình dạng, nhưng họ xem sự hiện diện của các Ngài là một phần trong cuộc sống thường nhật của họ. Và cũng không thể chối bỏ rằng, sự phục tùng này trong buổi đầu, đã tạo điều kiện cho sự phát triển của nền văn minh. Sự sợ hãi những lực lượng Tự nhiên đầy quyền năng đó, khiến con người biết cách tôn trọng thiên nhiên, lòng sợ hãi sự trừng phạt của đấng Siêu Nhiên làm nảy sinh những quy chuẩn đạo đức và phép tắc trong cư xử giữa con người với nhau trong xã hội loài người, thúc đẩy họ thực hiện những bổn phận và nghĩa vụ của mình đối với gia đình, cộng đồng, và môi trường tự nhiên.

Nhờ sự phục tùng như thế mà hằng ngày chúng ta mới có thể đóng góp một phần sức lực của mình để xây dựng nên những chuyện thần kì mà không một người nào trong chúng ta có thể hiểu hết được” [ Trang 457 ].

Mặt khác, GS Hayek cũng lập luận rằng rằng, ngay kể trong các xã hội nguyên thủy sơ khai như vậy, vẫn đã xuất hiện những cá nhân sáng suốt và có tư duy vượt khỏi bầy đàn, khỏi cộng đồng, những người đã có khả năng nhìn xuyên qua những tấm màn bao phủ các hiện tượng tự nhiên khủng khiếp và hư ảo đó, tiếp cận được phần nào sự thật. Họ đã đoán được những dấu hiệu “nổi giận” của tự nhiên nhờ vào nhiều dấu hiện lặp đi lặp lại ngày càng rõ ràng trước khi những hiện tượng này xảy ra. Họ lờ mờ hiểu được những nguyên lý khoa học ở phía sau sự thịnh nộ của các lực lượng Siêu Nhiên này. Tuy vậy, trong bối cảnh tri thức của phần lớn con người sống trong các xã hội nguyên thủy còn quá hữu hạn, việc “giải thích một cách duy lý về sự cần thiết phải phục tùng các lực lượng, mà cơ chế hoạt động của nó ta vẫn chưa nắm được một cách cụ thể là việc cực kì khó, [ khó hơn rất nhiều so với việc khuyên người ta ] là phục tùng chúng” [ Trang 461 ].

Những con người nguyên thủy nhưng sáng suốt, và có đầu óc nhìn xa trông rộng đó, họ biết rằng sớm hay muộn gì cũng đến một ngày con người sẽ tích lũy được nhiều kinh nghiệm hơn nhờ học hỏi những thế hệ trước, và ngày đó, họ có thể truyền lại những gì họ hiểu biết. Trong khi chờ đến lúc đó, họ đã âm thầm làm những công việc của mình, như gieo những hạt mầm vào lòng đất và thí nghiệm những điều kiện sống phù hợp nhất với hạt mầm đó, chờ một ngày chúng nảy nở, tái sinh thành những cái cây mạnh mẽ.

Xem xét từ khía cạnh lịch sử đó, Hayek rút ra kết luận rằng, NẾU NHƯ MỖI NGƯỜI CHỈ BIẾT ĐI THEO ĐÁM ĐÔNG, HOẶC NGỒI YÊN, VÀ KHÔNG CHỊU LÀM BẤT CỨ VIỆC GÌ KHI ANH TA CHƯA HIỂU BIẾT ĐƯỢC SỰ CẦN THIẾT CỦA NÓ, THÌ CHẮC CHẮN XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI ĐÃ KHÔNG THỂ TIẾN XA ĐẾN NHƯ NGÀY HÔM NAY … [ Trang 461 ]. Đôi khi, chính thái độ không chịu phục tùng những điều kiện tự nhiên áp đặt lên chúng ta, mà loài người đã từng bước một, giải phóng mình khỏi thế giới mê muội và tăm tối, dò dẫm đi về phía ánh sáng. Nhờ vào sự cố gắng bền bỉ không ngừng của những cá nhân như thế trong suốt nhiều thế hệ, mà con người đã đạt đến một hoàn cảnh sống đáng ngưỡng mộ như thời điểm đầu thế kỷ XX.

[ Ở đây, tác giả cũng khẳng định rằng, những khía cạnh tốt của việc thực hành tôn trọng thiên nhiên [ dưới dạng một tôn giáo hoặc một hình thức thờ cúng ] và việc duy trì những giá trị đạo đức nguyên thủy, vẫn giữ nguyên giá trị trong đời sống loài người hiện đại. Việc xem thường, xuyên tạc, loại bỏ những giá trị luân lý, đạo đức của quá khứ, vốn đã được chứng minh qua nhiều giai đoạn thăng trầm, có khả năng sẽ đưa tới sự hủy diệt của bất kỳ một nền văn minh nào trong thời kỳ hiện tại ].

Tuy nhiên, cũng thật đáng thất vọng, vì bất chấp những “Khát khao giải thoát khỏi những trói buộc mà con người đã nhận thức được, song người ta lại không hiểu rằng những trói buộc của hệ thống chuyên chế mà họ sẽ tự giác khoác lên mình còn nặng nề và đau khổ hơn nhiều” [ So với những gì các đấng Siêu Nhiên mang đến cho con người ] [ Trang 462 ].

Con đường tiến tới Tự Do và Thịnh Vượng, mà ông gợi ý ở đây là “chúng ta phải tìm cách phối hợp những cố gắng của các cá nhân với “những lực lượng siêu nhiên” [ Đại diện cho những giá trị văn hóa, lịch sử, đạo đức, định hình loài người chúng ta, trong so sánh với các loại động vật khác ]. Tiến trình kết hợp những sức mạnh này, dù có diễn ra ở quy mô nào đi chăng nữa, phải diễn ra một cách tự nguyện và dân chủ, tôn trọng sự khác biệt giữa những cá nhân: “ý tưởng then chốt là tự do cá nhân KHÔNG THỂ HÒA HỢP với quyền uy tuyệt đối mà cả xã hội phải phục tùng một cách toàn diện và vĩnh viễn” [ Trang 463 ].

Ông cũng bổ sung, “Ngoại lệ duy nhất [ Đối với việc cá nhân phải hy sinh phần nào tự do cá nhân của mình ], là tình trạng chiến tranh hay những thảm họa tạm thời khác, khi mà hầu như tất cả đều phải phục vụ cho nhu cầu bức bách trước mắt“. Nhưng, điều này cũng chỉ có ý nghĩa là “Cái giá chúng ta phải trả trong ngắn hạn nhằm bảo vệ sự tự do của chúng ta trong dài hạn“. Có nghĩa là, chúng ta chấp nhận hy sinh, vì chúng ta tin rằng, chính quyền của thời kỳ hậu chiến / hậu thảm họa, sẽ bảo vệ cho quyền làm người Tự Do của chúng ta.

Cũng đứng trên nguyên tắc này, ông đã khẳng định rằng, có nhiều thứ thuộc về thời chiến sẽ không thể áp dụng lại trong thời bình được, “Điều đó giải thích tại sao nhiều câu nói thịnh hành hiện nay rằng trong thời bình chúng ta cũng sẽ làm những việc như chúng ta đã học làm trong thời chiến là những câu nói hoàn toàn sai: có thể tạm thời hi sinh tự do để trong tương lai tự do càng vững chắc hơn, nhưng không thể nói như thế được nếu hệ thống phi tự do như thế trở thành vĩnh cửu” [ Trang 463 ].

Tuy nhiên, ở những nhà nước độc tài toàn trị, chúng ta không khó để thấy rằng, có nhiều mô hình từ kinh tế, chính trị tới văn hóa, là những sản phẩm “con đẻ” của thời kỳ chiến tranh, vẫn tiếp tục tồn tại dai dẳng trong xã hội hiện đại, trở thành những lực cản to lớn cho sự phát triển của xã hội hiện tại.

Ở Việt Nam, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên… nhà nước nắm độc quyền về mọi lĩnh vực sinh tử đối với mỗi cá nhân, cộng đồng người, từ lương thực thực phẩm, tới năng lượng, giao thông vận tải, tài nguyên thiên nhiên, giáo dục, y tế. Các thành viên vừa thiếu khả năng, vừa thiếu nhân tâm của Đảng độc tài và bộ máy cai trị khổng lồ của họ vươn ra như những cái vòi bạch tuộc, bám vào khắp mọi nơi để hút cạn kiệt đi những nguồn lực tốt nhất mà xã hội có thể tích lũy, chúng không còn chừa lại một không gian nào cho những cá nhân có đầu óc tự do, những cộng đồng đặc thù, những nhà khoa học, các chuyên gia trong các lĩnh vực, những người thực hành tôn giáo, đạo đức, để họ làm công việc của mình.

Kết quả là, chúng ta đã được nhìn thấy những thiệt hại về kinh tế, văn hóa, giáo dục vô cùng thảm khốc đối với những dân tộc này, như đã đề cập ở những phần trước.

Ngay vào thời điểm này đây, khi dịch bệnh virus Vũ Hán quét qua thế giới, chúng ta cũng đang được chứng kiến những thất bại đau đớn, không còn có thể che dấu bằng bất cứ thứ vỏ bọc nào nữa, và cũng không còn đáng để tha thứ, nhìn từ bất cứ phương diện nào, của bộ máy lãnh đạo toàn trị của các đảng độc tài, trong đó có Việt Nam.

Ở Việt Nam, cho dù chiến tranh đã qua từ bao nhiêu thập niên, giờ này lãnh đạo Việt Nam vẫn không ngừng đổ lỗi tình trạng nghèo khổ, lạc hậu của Việt Nam là do chiến tranh. Những khẩu hiệu kiểu như “Quyết tâm, Quyết tử, Quyết chiến, Quyết thắng, Quán triệt mục tiêu, Chỉ đạo sâu sát, Lãnh đạo triệt để, Toàn dân thi đua, Hạ gục nhanh, Tiêu diệt gọn…” vẫn hiện diện trong các hội thảo khoa học, các cuộc họp ở các công sở, một cách sáo rỗng và phi thực tế.

Các mô hình Mặt Trận Tổ Quốc, Bộ Chính Trị, Dân Quân Tự Vệ, AK 47, lực lượng dư luận viên, Ban Tuyên Giáo Trung Ương và cơ sở, Học Viện Báo Chí tuyên truyền, tổ chức Đảng từ cấp cơ sở tới cấp Trung Ương, cơ chế ấp “chiến lược”, khái niệm sở hữu toàn dân, lập chỉ tiêu, kế hoạch… Tất cả đều là tư duy thời chiến nhưng vẫn được bưng nguyên xi vào trong đời sống của người dân trong thời hậu chiến, khiến cho đời sống của người dân trong cả nước vẫn bị bao phủ và nhận chìm trong bầu không khí chiến tranh. Việc hy sinh đi cái tự do của người dân, thay vì chỉ là tạm thời thì, đã trở thành tình trạng vĩnh viễn.

Theo quan điểm của Hayek, nếu như người ta chỉ háo hức với việc chiến tranh kết thúc, người ta thiếu những kế hoạch tái thiết thời hậu chiến được tính toán một cách chi tiết và khoa học, thì đất nước sẽ không bao giờ thực sự có khả năng bước ra khỏi được tư duy “chiến tranh”. Ông cho rằng, dĩ nhiên cần phải có thời gian để mỗi quốc gia chuyển tiếp từ “Chiến Tranh” qua “Hòa Bình”, nhưng thời gian này cần phải gắn với những mục tiêu ngắn hạn và rõ ràng và tối cần thiết, mang tính chất “bắc cầu” giữa hai giai đoạn. Nhà nước không được phép “mị dân” bằng những từ ngữ hoa mỹ, nhưng mơ hồ, trong giai đoạn này, chẳng hạn như, “dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, ai cũng có việc làm…”, vì nó có thể dẫn tới những biện pháp cực kì thiển cận. Họ cũng không nên đưa ra những kế hoạch hay chỉ tiêu to lớn mà kèm theo những đòi hỏi quyết liệt và thiếu trách nhiệm như “phải làm bằng mọi giá” của những người lí tưởng hóa. Điều này chắc chắn sẽ mang lại nhiều tác hại to lớn [ Trang 463 ].

Là một nhà kinh tế học, GS Hayek cho rằng, muốn xây dựng một xã hội thời hậu chiến, người ta phải ưu tiên vực dậy nền kinh tế, trong đó quan trọng nhất là sử dụng nguồn lực lao động một cách hợp lý. “Không nghi ngờ gì rằng vào thời điểm sau chiến tranh, sự khôn ngoan trong quản lí kinh tế còn quan trọng hơn cả thời kỳ trước đó, và số phận của nền văn minh của chúng ta rốt cuộc sẽ phụ thuộc vào việc chúng ta sẽ giải quyết những vấn đề kinh tế như thế nào” [ Trang 464 ].

Điều này là vì “Một trong những đặc điểm quan trọng của thời hậu chiến là hàng trăm ngàn người, cả đàn ông và đàn bà, do nhu cầu chiến tranh đã phải chuyển qua làm những công việc mà người ta không mong muốn. Trong thời bình khả năng sử dụng một số lượng người lớn đến như thế sẽ không còn… Việc tái đào tạo, chắc chắn sẽ được thực hiện trên quy mô to lớn, cũng không thể giải quyết được toàn bộ vấn đề..” [ Trang 464 ].

Ông giải thích, “Nếu không [ có kế hoạch phân phối nguồn lực lao động này hợp lý ], nó sẽ dẫn tới việc tiếp tục dư số lượng người lao động. Nó sẽ làm cho năng suất lao động giảm và sẽ làm gia tăng tỉ lệ những người làm việc mà lương bổng của họ được giữ nguyên chỉ nhờ các biện pháp nhân tạo [ của thời chiến ]”.

Một luận điểm khác cũng được Hayek chỉ ra ở đây, đó là TÌNH TRẠNG PHÂN PHỐI LƯƠNG THỰC, THỰC PHẨM, TÀI SẢN THEO KIỂU “BÌNH QUÂN CHỦ NGHĨA” TRONG THỜI CHIẾN, SẼ KHÔNG THỂ TIẾP TỤC ĐƯỢC THỰC HIỆN TRONG THỜI BÌNH. Ông cho điều đúng đắn nhất mà xã hội thời Hậu chiến nên làm đó là “Phải tìm cách nâng cao thu nhập của các cá nhân. Cũng như toàn xã hội, để mọi người có thể được hưởng phúc lợi xã hội tốt hơn“.

Ông cảnh báo “Có lẽ cũng không kém phần quan trọng là không được khắc phục tình trạng nghèo đói bằng các biện pháp thiển cận như tái phân phối thay vì phải nâng cao thu nhập, làm như thế là đẩy nhiều nhóm xã hội đông người thành kẻ thù của trật tự hiện hành“… [ Trang 465 ].

Ông lưu ý rằng, việc truất hữu tài sản của giai cấp trung lưu để chia đều cho những giai cấp nghèo khổ hơn, chính là chúng ta đang dùng tới các hình thức bạo lực để trấn áp Tự Do của người khác, và những ai đồng ý với điều đó, chính là họ đang giúp sức cho việc ngóc đầu dậy của chủ nghĩa toàn trị trên đất nước của họ. Cũng tương tự như thế, việc cướp của người giàu chia cho người nghèo tự nó sẽ không làm cho tài sản xã hội tăng lên mà nó còn bắt những người có khả năng hơn phải hi sinh phẩm giá và hạ thấp những chuẩn mực cuộc sống của mình, trong khi nó không hề làm tăng phẩm giá hay chuẩn mực cuộc sống của những tầng lớp thấp kém hơn.

Chúng ta chỉ có thể xây dựng được một thế giới tử tế nếu chúng ta có thể tiếp tục cải thiện được điều kiện sống cho tất cả mọi người… Chúng ta muốn khôi phục và đạt được mức sống cao hơn thì chúng ta phải tiến hành những điều chỉnh lớn chưa từng có, và chỉ khi mỗi người chúng ta sẵn sàng tuân theo những nhu cầu tất yếu của quá trình tái điều chỉnh này thì chúng ta mới có thể vượt qua giai đoạn khó khăn như những người tự do, những người có quyền lựa chọn cách sống riêng của mình” [ Trang 465 ].

Để làm được điều đó mà không gây ra nhiều xáo trộn trong xã hội, ông đề nghị các chính phủ “Hãy tìm mọi cách để đảm bảo một mức sống tối thiểu đồng đều cho tất cả mọi người, NHƯNG ĐỒNG THỜI VỚI VIỆC ĐẢM BẢO MỘT MỨC SỐNG TỐI THIỂU NHƯ THẾ RỒI, THÌ MỌI ĐÒI HỎI VỀ ƯU TIÊN, ƯU ĐÃI CHO NHỮNG GIAI TẦNG ĐẶC BIỆT [ Những người không thể / hoặc không muốn lao động trong xã hội, thường xuyên sống bằng trợ cấp, và những nhóm lãnh đạo đã quen được hưởng những ưu đãi đặc biệt ] CŨNG PHẢI BỊ BÃI BỎ. Mọi lí do cho phép thành lập những nhóm khép kín nhằm bảo đảm những tiêu chuẩn đặc biệt cho họ cũng sẽ phải bị bãi bỏ“.

GS Hayek cho rằng, nếu những nhà lãnh đạo đất nước [ Tầng lớp đã được ưu ái nhiều trong những thời kỳ khó khăn ] không đồng ý hy sinh những lợi ích của mình như ý kiến trên, mà họ tìm những cách thức khác để biện minh, chẳng hạn như “Mặc xác kinh tế, chúng ta sẽ xây dựng một thế giới tử tế”, thì “đấy là những lời kêu gọi nghe có vẻ cao thượng nhưng trên thực tế lại là những lời nói hoàn toàn vô trách nhiệm… Điều duy nhất mà nền dân chủ hiện đại không thể chịu đựng được, nó nhất định sẽ bị tổn thương, đấy là khi nó buộc phải giữ mức sống thấp đối với dân chúng của nó ngay cả trong thời bình hoặc chứng kiến sự giẫm chân tại chỗ của nền kinh tế trong một thời gian dài” [ Trang 478 ].

Điều này, giải thích cho nhiều người trong chúng ta rằng, tại sao những quốc gia như Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Cuba, lại chưa bao giờ có khả năng chạm vào cánh cửa của nền “dân chủ”. Hayek cũng cảnh báo rằng, lãnh đạo của các quốc gia độc tài toàn trị, để giữ lại những quyền lợi và ưu tiên của mình, họ sẽ tiếp tục tự lừa phỉnh dân chúng rằng toàn dân đang hi sinh quyền lợi vật chất nhân danh những mục đích lí tưởng cao đẹp của Chủ Nghĩa Xã Hội, Chủ Nghĩa Cộng Sản, hoặc cái gì đó tương tự. Sự lừa phỉnh của tầng lớp lãnh đạo này, đến lượt nó, sẽ có thể làm nảy sinh, ngay cả ở những con người lương thiện nhất trong xã hội, những bản tính lừa lọc, dối trá, nghi kỵ, ích kỷ, giảo hoạt, háo danh, khi họ phải hàng ngày đối mặt với các thủ đoạn và đòi hỏi của bộ máy cai trị.

Như vậy, liệu năm mươi năm tiếp xúc với chủ nghĩa tập thể có nâng cao được tiêu chuẩn đạo đức của chúng ta hay sự thay đổi sẽ đi theo chiều ngược lại?” [ Trang 471 ].

Liên quan đến việc xây dựng một xã hội “Công bằng, bình đẳng, văn minh, nhân bản“. Hayek cho rằng, “Mặc dù chúng ta thường tỏ ra tự hào là nhạy cảm hơn với các bất công xã hội, nhưng hành động của mỗi người chúng ta thì lại chưa chứng tỏ được điều đó” [ Nếu chúng ta đồng ý với nhau rằng, sẽ luôn có những tầng lớp được hưởng đặc quyền đặc lợi hơn phần lớn những người dân trong xã hội, dù họ không thể chứng minh được những đóng góp của họ là xứng đáng với những đặc quyền đặc lợi đó, thì có nghĩa là chúng ta đã phản lại tinh thần công bằng của nền dân chủ tự do ] [ Trang 471 ].

Cũng như vậy, về mặt đạo đức xã hội, Hayek khẳng định, “Các tiêu chuẩn đạo đức nhất định phải gắn bó mật thiết với các hành vi mang tính cá nhân [ Cá nhân tự quyết định mình nên trở thành người như thế nào, thông qua những hành động của mình ], cũng như chúng chỉ có hiệu lực khi cá nhân được tự do quyết định và tự nguyện hi sinh các quyền lợi cá nhân [ mà không bị một sức ép nào từ bên ngoài ] nhằm thực thi các quy tắc đạo đức. Chỉ khi chúng ta hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyền lợi của mình, và có tự do trong việc chọn lựa hi sinh các quyền lợi đó, thì quyết định của chúng ta mới có giá trị đạo đức“.

Chắc chắn rằng, chúng ta sẽ CHẲNG THỂ được coi là vị tha khi chúng ta chỉ muốn hi sinh quyền lợi của người khác [ Như cách mà các nhà lãnh đạo độc tài toàn trị hy sinh quyền lợi của dân chúng ] cho những mong ước của chúng ta, chúng ta sẽ KHÔNG XỨNG ĐÁNG được vinh danh nếu như chúng ta ép người khác vào chỗ không còn lựa chọn nào khác, ngoài hi sinh lợi ích của họ, cho những mong muốn của chúng ta, dù rằng với bất kỳ mục đích nào. Thêm vào đó, nếu những thành viên của một xã hội mà trong bất cứ hoàn cảnh, điều kiện nào, cũng cam chịu phải làm cái điều [ mà họ được tuyên truyền rằng là điều tốt ] dù phải hy sinh quyền lợi của họ, thì họ cũng chẳng có gì để chúng ta phải ca ngợi [ Vì họ đã không tự biết suy nghĩ để bảo vệ quyền lợi của chính mình ] [ Trang 472 ].

Hayek bày tỏ niềm tin tưởng mạnh mẽ vào việc “Chỉ có thể gọi một xã hội là văn minh, nhân bản, đạo đức khi từng thành viên trong xã hội đó tự ý thức được vai trò cá nhân và xã hội của mình, khi từng cá nhân trong xã hội đó nỗ lực để trở nên có đạo đức và hành xử phù hợp, mà không thể có trường hợp ngược lại” [ Tức, gọi nhà nước đó là nhà nước đạo đức trước, rồi dân chúng tự động trở nên có đạo đức. Không thể có chuyện gọi nhà nước là Xã Hội Chủ Nghĩa hay Cộng Sản, thì người dân sẽ theo đó mà có tinh thần Xã Hội Chủ Nghĩa ].

Ông lập luận:

Tự do hành động ngay trong những hoàn cảnh thách thức những lựa chọn của chúng ta, cũng như biết tự chịu trách nhiệm khi chọn lựa cách tổ chức cuộc sống phù hợp với lương tâm của mình, chính là những điều kiện cần thiết để ý thức về đạo đức [ của mỗi cá nhân ] có thể phát triển… Mỗi cá nhân sẽ chịu trách nhiệm, không phải trước cấp trên, mà trước lương tâm của mình…. Ý thức về trách nhiệm SẼ KHÔNG đến từ việc một cá nhân vì bị cưỡng bức mà phải thực hành, mà cần phải đến từ việc cá nhân coi cái gì đó là có giá trị, và họ phải dám hy sinh những cái khác, cũng như sẵn sàng chấp nhận hậu quả của những quyết định do mình đưa ra, tất cả những điều đó chính là bản chất của đức hạnh, theo nghĩa đúng đắn nhất của từ này” [ Trang 472-473 ].

Ông cũng cho rằng, “Trong lĩnh vực hành vi cá nhân thì ảnh hưởng của chủ nghĩa tập thể chỉ mang tính phá hoại. Phong trào nào mà hứa hẹn sẽ giải thoát con người ta khỏi trách nhiệm cá nhân, chắc chắn nó sẽ trở thành phong trào phi đạo đức” [ BLM? ]. Trên thực tế dù lí tưởng ban đầu của nó có cao quý đến mức nào, và…

Lên tiếng đòi hỏi nhà cầm quyền cải thiện tình hình HOẶC ngồi im, cam chịu phục tùng mệnh lệnh của nhà cầm quyền, miễn là những người khác xung quanh mình cũng bị buộc phải làm như thế, VÀ, tự mình sẵn sàng đứng lên làm những việc mà mình cho là đúng, ngay cả khi phải hi sinh những ước mơ riêng của mình, cũng như việc mình sẽ có thể phải hứng chịu những điều tiếng không hay LÀ HAI VIỆC HOÀN TOÀN KHÁC NHAU“. [ Một cá nhân tự do, và biết suy nghĩ thì phải phân biệt được hai điều này rõ ràng ].

Ông cho rằng, trong các xã hội, khi các nhà độc tài toàn trị lên tiếng, họ thường có xu hướng kêu gọi con người hướng vào những hành động tập thể và bỏ qua những suy tư về bản thân họ như là những con người cá nhân cụ thể. Điều này cực kỳ là tai hại, vì có nghĩa là họ cũng bỏ qua cả những sai trái của những con người cá nhân, và chỉ dành sự quan tâm cho những mục đích tập thể, cho dù cái mục đích đó nó tàn nhẫn và phi nhân tính.

Có nhiều sự kiện chứng tỏ rằng trên thực tế càng ngày chúng ta càng dễ bỏ qua những hành động bất lương cụ thể, càng ngày càng tỏ ra bàng quan đối với những bất công riêng lẻ, trong khi đó lại chú mục vào cái hệ thống lí tưởng, trong đó nhà nước sẽ tổ chức mọi việc một cách hoàn hảo. Có thể, như đã nói bên trên, CHÍNH NIỀM SAY MÊ HÀNH ĐỘNG TẬP THỂ LÀ CON ĐƯỜNG ĐƯA CHÚNG TA CHÌM ĐẮM VÀO THÓI ÍCH KỶ TRÊN QUY MÔ TẬP THỂ” [ Trang 474 ].

Và như vậy, “Những đức tính tốt như tự lập, tự lực cánh sinh, sẵn sàng mạo hiểm, sẵn sàng bảo vệ ý kiến của mình dù trái ngược với đa số và tinh thần sẵn sàng hợp tác với người khác, là những đức tính tối quan trọng của xã hội cá nhân chủ nghĩa thì nay không còn được đánh giá cao, và ít được thực hành hơn trước. Chủ nghĩa tập thể không thể thay thế được những đức tính đó, nhưng trong khi phá hủy chúng, chủ nghĩa tập thể đã để lại một khoảng trống về mặt đạo đức, mà sau đó lại được lấp đầy bằng một yêu cầu duy nhất là các cá nhân phải phục tùng và tham gia thực hiện những điều mà tập thể [ chứ không phải cá nhân ] quyết định là tốt” [ Trang 475 ].

Nguy hiểm hơn, điều này sẽ khiến cho sự lựa chọn về khía cạnh đạo đức đạo đức của các ứng cử viên [ là những người sẽ đại diện cho ý chí của người dân ] trong các cuộc bầu cử định kì ngày một thu hẹp thêm. Các ứng cử viên sẽ không còn cần phải chứng minh những giá trị đạo đức của cá nhân họ, cũng không cần phải chứng minh lòng chân thành cũng như lương tâm, năng lực của mình, mà chỉ cần đưa ra những lời hứa hẹn sáo rỗng về tinh thần và mục tiêu của tập thể, khiến cho việc lựa chọn ra người đại diện chính quyền này có thể thất bại hoàn toàn, hoặc đem lại những hậu quả vô cùng tai hại.

Vì các QUY TẮC HÀNH XỬ CỦA CÁ NHÂN CHÍNH LÀ CỘI NGUỒN ĐỨC HẠNH CỦA CÁC HÀNH ĐỘNG CHÍNH TRỊ TẬP THỂ, cho nên quả là chuyện lạ nếu tiêu chuẩn đạo đức cá nhân giảm đi LẠI CÓ THỂ ĐI kèm với sự gia tăng các tiêu chuẩn của hành động xã hội”. [ Chỉ có nhiều cá nhân tốt tạo ra xã hội tốt, chứ khó có thể ngược lại ] [ Trang 476 ].

GS Hayek cũng cho rằng, ở những xã hội khác nhau, vào những thời điểm khác nhau, con người sẽ sắp xếp lại các thang giá trị của mình, trong đó, họ sẽ có thể coi một số giá trị là cao hơn, một số thấp hơn so với các thế hệ đi trước.

Tuy nhiên, ông tin rằng, có những giá trị sẽ giống nhau ở nhiều xã hội, và nhiều xã hội sẽ chia sẻ những giá trị này. Một trong số đó là những điều kiện cơ bản, ở mức ít nhất là đủ cho nhu cầu tối thiểu của con người [ Ăn, ở, mặc, hít thở không khí sạch ].

Ông lập luận:

Nhưng xin hãy tự hỏi: những mục tiêu nào đang bị coi là thấp, và giá trị nào có thể phải hi sinh… nếu chúng xung đột với các giá trị khác? Trong các họa phẩm vẽ về tương lai mà các văn sĩ và các diễn giả đưa ra cho chúng ta, thì những giá trị nào có vị trí mờ nhạt hơn so với những bức tranh từng hiện diện trong những giấc mơ và niềm hi vọng của cha ông chúng ta?

Chắc chắn là tiện nghi vật chất, nâng cao mức sống và bảo đảm một vị trí xã hội nhất định KHÔNG THỂ CHIẾM CÁC VỊ TRÍ THẤP TRÊN THANG GIÁ TRỊ CỦA CHÚNG TA” [ Nếu chúng ta là những con người bình thường, bằng xương bằng thịt, và có lý trí ].

LIỆU CÓ VĂN SĨ HAY DIỄN GIẢ NÀO DÁM ĐỀ NGHỊ QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN NHÂN DANH NHỮNG LÝ TƯỞNG CAO CẢ MÀ CHẤP NHẬN HY SINH CÁC TRIỂN VỌNG VẬT CHẤT CỦA HỌ HAY KHÔNG?

Vậy mà ngay vào lúc này, sau 80 năm Hayek đã cảnh báo điều này, thì ở các quốc gia độc tài toàn trị, nơi các lãnh đạo độc tài toàn trị thường xuyên kêu gọi những người dân khốn khổ của mình hy sinh những khát vọng cá nhân cho những mục tiêu tập thể lý tưởng đến độ hoang tưởng, nơi người ta thường xuyên kêu gọi những con người còn đang trong những hoàn cảnh sống thấp kém, phải biết quên đi những đòi hỏi vật chất, những đòi hỏi cơ bản của con người, để toàn tâm hướng tới những giá trị đạo đức cao cả, những thứ mà chỉ có các bậc triết nhân, vĩ nhân, những người đã đạt đến những hoàn cảnh sống hết sức đầy đủ rồi mới dám mơ tưởng đến. [ Điển hình là vào ngày 11/08/2021 Tổng Bí Thư của Đảng Cộng Sản Việt Nam mới phát biểu: Tiền bạc lắm làm gì, danh dự mới là điều thiêng liêng, cao quý nhất ].

Thêm vào đó, Hayek cũng đặt câu hỏi về những giá trị quan trọng mà người dân không được phép để nó bị xâm phạm theo bất cứ cách thức nào, trong bất cứ kế hoạch nào trong tương lai, trong đó bao gồm các: quyền tự do cá nhân, quyền tự do đi lại, quyền tự do ngôn luận nữa, và quyền lên tiếng đòi hỏi chính phủ phải cung cấp cho mình những thứ mà mình cần, sau khi mình đã có những đóng góp hợp lý [ Trang 477 ].

[ Ở những xứ sở độc tài toàn trị ], việc phân biệt đối xử với những thành viên và những người không phải thành viên của các “nhóm lợi ích” [ thường là bộ máy lãnh đạo và bè lũ tay sai ], đấy là chưa nói tới những sắc dân thuộc các thành phần khác, càng ngày càng được coi là vấn đề đương nhiên… Những bất công do chính phủ gây ra cho các cá nhân, khi nó chỉ hành động nhằm bảo vệ quyền lợi của một nhóm nào đó, đã bị người ta lờ đi với thái độ bàng quan có thể sánh ngang với sự tàn nhẫn… Những vụ vi phạm trắng trợn quyền cơ bản của con người, thí dụ như ép buộc di dân hàng loạt [ Đi kinh tế mới, dồn người vào các trại cải tạo ] được ngay cả những người tự nhận là theo trường phái tự do ủng hộ.

TẤT CẢ NHỮNG ĐIỀU NÀY, CHỨNG TỎ RẰNG Ý THỨC ĐẠO ĐỨC CỦA CHÚNG TA ĐÃ CÙN MÒN ĐI, CHỨ KHÔNG PHẢI LÀ SẮC BÉN THÊM [ Theo quy luật về sự tiến hóa của con người ] [ Trang 477 ].


Bình luận về sự thoái hóa đạo đức của con người nói chung trong các xã hội độc tài toàn trị nói chung, Hayek cho rằng:

Có một khía cạnh trong sự thay đổi của các giá trị đạo đức, mà do sự lấn tới của chủ nghĩa tập thể đã gây ra, rất đáng được suy ngẫm vào lúc này. Đó là những đức tính càng ngày càng ít được coi trọng, và vì vậy càng ngày càng trở thành hiếm hoi hơn, nhưng trước đây các đức tính này từng là niềm tự hào của người Anglo-Saxon [ Người Anh hiện tại ] và họ cũng được mọi người thừa nhận là xuất sắc về mặt đó” [ Trang 478 ].

Những đức tính mà các dân tộc này sở hữu là TÍNH ĐỘC LẬP VÀ TỰ LỰC CÁNH SINH, SÁNG KIẾN CÁ NHÂN VÀ TRÁCH NHIỆM CỘNG ĐỒNG, BIẾT TỔ CHỨC VÀ DỰA VÀO CÁC HOẠT ĐỒNG TÌNH NGUYỆN, TRONG KHI, KHÔNG CAN THIỆP VÀO CÔNG VIỆC CỦA NGƯỜI KHÁC, CŨNG NHƯ KHOAN DUNG VỚI NHỮNG NGƯỜI CÓ SUY NGHĨ KHÁC MÌNH, KỂ CẢ VỚI NHỮNG NGƯỜI CÓ KHUYNH HƯỚNG BỊ COI LÀ LẬP DỊ, TÔN TRỌNG TẬP QUÁN TRUYỀN THỐNG, CÓ THÁI ĐỘ NGHI NGỜ LÀNH MẠNH ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN VÀ NHÀ CHỨC TRÁCH.

Gần như tất cả các truyền thống và thiết chế, trong đó tinh thần đạo đức dân chủ được thể hiện một cách đặc trưng nhất và đến lượt nó, lại hun đúc nên tinh thần dân tộc và toàn bộ bầu không khí đạo đức của nước Anh và nước Mĩ này, lại đang bị chủ nghĩa tập thể và các xu hướng tập quyền gắn liền với nó phá hủy” [ Trang 478 ]. Hayek xem việc mà người [ Anh ] coi thường những đóng góp có giá trị nhất của họ cho nhân loại là “một trong những cảnh tượng đáng buồn nhất trong thời đại chúng ta“. Ông cho rằng khi người ta xem thường những giá trị tượng trưng cho Con người cá nhân Độc Lập, Tự Do và nền Dân Chủ như vậy, thì nền dân chủ sớm muộn gì cũng bị lung lay, tiến đến chỗ có thể bị thay thế bằng nền cai trị độc tài toàn trị. “Những người Xã Hội Chủ Nghĩa này, dĩ nhiên là không bao giờ chịu công nhận rằng, các giá trị đạo đức mà đa số họ vẫn lấy làm tự hào [ Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc ], lại là sản phẩm của những thiết chế mà họ đã và đang kêu gọi phá hủy” [ Trang 479 ].

Đáng kinh ngạc hơn, khi Hayek viết cuốn sách này, chiến tranh Thế Giới Thứ II vẫn chưa kết thúc, nhưng Hayek đã có suy nghĩ tới việc chính các nước đồng minh ở Phương Tây sẽ phải gánh vác vai trò tái thiết lại Châu Âu, sau thất bại của phe phát xít. Hayek đã nói rằng, “Nếu sau này chúng ta [ Anh và các nước đồng minh ], phải giúp nước Đức và Ý tái thiết lại đất nước sau thế chiến, [ ông tin rằng ] “những quốc gia này sẽ hiểu sâu sắc rằng, TẤT CẢ CÁC Ý ĐỊNH TỐT ĐẸP LẪN TÍNH HIỆU QUẢ CỦA HỆ THỐNG ĐỀU SẼ CHẲNG THỂ BẢO VỆ ĐƯỢC SỰ ĐÚNG ĐẮN CỦA CHÚNG, TRONG MỘT HỆ THỐNG MÀ KHÔNG CÓ CẢ TỰ DO LẪN TRÁCH NHIỆM CÁ NHÂN. Người Đức và người Ý, là những người đã thấm nhuần bài học về sự độc tài của chính phủ tiền nhiệm của họ, phải làm trước hết là TỰ BẢO VỆ HỌ BẰNG CÁCH CHỐNG LẠI MÔ HÌNH NHÀ NƯỚC TẬP TRUNG TOÀN TRỊ” [ Trang 483 ].


Sau cùng thì, những nhận định sau của GS Hayek cũng có thể rất đáng cân nhắc cho người dân ở những nước đang nằm dưới sự cai trị của bộ máy độc tài toàn trị:

Người dân không cần những kế hoạch đại quy mô nhằm tổ chức lại toàn bộ xã hội, cái họ cần là cơ hội xây dựng lại thế giới nhỏ bé của mình một cách thanh bình và trong tự do. Họ hoàn toàn có thể hi vọng vào sự trợ giúp của những kiều dân của các nước từng là đối thủ của họ, KHÔNG PHẢI vì họ tin rằng bị người Anh hay người Mĩ chỉ đạo thì tốt hơn là bị người Đức [ hay người Liên Xô, Trung Hoa ] chỉ đạo, MÀ VÌ HỌ TIN RẰNG, trong cái thế giới mà, nơi các lí tưởng dân chủ đã chiến thắng, người dân sẽ ít cam chịu sự chỉ đạo từ bên trên hơn, người dân sẽ được sống trong hòa bình và theo đuổi những mối quan tâm riêng của mình” [ Trang 483 ].

Bên cạnh đó, Hayyek cũng đưa ra những lời gợi ý, mà có thể ngay vào thời điểm này, có thể là vô cùng cần thiết cho việc xây dựng đất nước trong tương lai, của người dân ở các quốc gia độc tài toàn trị:

Muốn thắng trong cuộc đấu tranh tư tưởng và lôi kéo được những phần tử tử tế trong các quốc gia thù địch, thì trước hết chúng ta phải giành lại lòng tin vào những giá trị truyền thống mà chúng ta từng bảo vệ trong quá khứ [ Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc, Dân Chủ, Yêu Nước Thương Nòi, Can Đảm, Hy Sinh, Có Trách Nhiệm ], và phải có đủ dũng khí đạo đức để bảo vệ những lí tưởng mà đối thủ của chúng ta [ Là những kẻ muốn duy trì chế độ độc tài, toàn trị ] đang tấn công chúng ta….

Chúng ta sẽ giành được niềm tin và sự ủng hộ KHÔNG PHẢI bằng những lời xin lỗi đáng xấu hổ, KHÔNG PHẢI bằng những lời bảo đảm rằng chúng ta sẽ cải tổ một cách nhanh chóng, KHÔNG PHẢI bằng những lời giải thích rằng chúng ta đang đi tìm sự thỏa hiệp giữa các giá trị tự do truyền thống và những tư tưởng toàn trị mới, mà chính là niềm tin không hề lay chuyển của chúng ta vào những truyền thống đã làm cho nước Anh và nước Mĩ [ và những quốc gia dân chủ tự do khác ], trở thành quốc gia của những con người tự do, ngay thẳng, khoan dung và độc lập. Đó mới là điều đáng để chúng ta quan tâm [ Trang 484 ].

Phần kết,

Tôi xin tạm dừng phần tóm tắt tác phẩm “Đường Về Nô Lệ” của tác giả Hayek ở đây. Trong tác phẩm vĩ đại này, GS Hayek cũng còn dành ra chương cuối cùng để tiên đoán về trật tự thế giới sau Thế Chiến Thứ Hai, về xu hướng quốc tế hóa và khu vực hóa, về sự trỗi dậy của những hình thức chủ nghĩa độc tài toàn trị mới, trong các khu vực, khi những quốc gia có nhiều thế mạnh hơn cố gắng áp đặt những chuẩn mực của mình lên những quốc gia nhỏ bé hơn, và điều này sẽ dẫn tới nguy cơ tan vỡ của chủ nghĩa khu vực [ Như chúng ta đã được chứng kiến hiện tượng Brexit trong những năm qua ].

Tôi hiểu một cách sâu sắc rằng bản tóm tắt này còn rất nhiều thiếu sót, và những phân tích cũng còn rất thiển cận và vụng về, không thể chuyển tải được toàn bộ ý nghĩa to lớn của tác phẩm.

Tuy nhiên, tôi tin rằng bất cứ một người nào dù sống ở đâu trên trái đất này, tự nhận mình là người Việt Nam, đều có chung mong đợi một ngày đất nước phát triển, nền dân chủ được thực thi rộng rãi trong đời sống xã hội ở Việt Nam. Khi đó, những người Việt Nam có thể ngẩng cao đầu bước đi với niềm tự hào là công dân của một quốc gia tự do, có thể tự tin cầm một cuốn hộ chiếu trên tay mà không cảm thấy hổ nhục, có thể tự giới thiệu mình là người Việt Nam mà không cảm thấy ngại ngùng trước con mắt của bạn bè thế giới.

[ Xếp hạng của Tổ Chức Cư Trú và Công Dân Toàn Cầu Henley & Partners, trong suốt nhiều năm, hộ chiếu Việt Nam chỉ được xếp dưới hoặc cùng lắm là ngang bằng với hộ chiếu Lào và Campuchia ( Báo Thanh niên; https://thanhnien.vn/tai-chinh-kinh-doanh/ho-chieu-viet-nam-kem-quyen-luc-hon-ca-lao-campuchia-966451.html ) ].

Tính đến Tháng Bảy, 2021, hộ chiếu Việt Nam xếp hạng thứ 94/199 hộ chiếu, đồng hạng với Nigeria, Mali và Cambodia.

Chúng ta là một quốc gia đang sống trong hòa bình, chúng ta có “Rừng vàng biển bạc, có lịch sử 4,000 năm, có gần 100 triệu dân trong thời điểm hiện tại, dân chúng ta thông minh, chăm chỉ, yêu nước, thương nòi, nước chúng ta có sự lãnh đạo thiên tài, sáng suốt của Đảng cộng sản quang vinh muôn năm, chúng ta làm được những điều mà thế giới chưa bao giờ làm được…”. Vậy mà vì cớ gì mà người Việt Nam cầm cái hộ chiếu của nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam trên tay, lại không thể mở mày mở mặt ra được với bất cứ quốc gia nào trên thế giới này? Có điều gì đó là nghịch lý đến nỗi nó không đáng được tha thứ ở đây không?

Chắc chắn là không phải riêng tôi, mà còn rất nhiều người Việt Nam khác, cũng có niềm tin vững vàng rằng Việt Nam có những tiềm năng con người to lớn, không thua kém bất cứ một quốc gia nào ở trong khu vực Đông Nam Á, và có thể là ngoài khu vực này nữa. Trong suốt nhiều năm qua, những tiềm năng này đã tỏa sáng rực rỡ khi chúng được mang đi vun trồng ở những mảnh đất của tự do.

Chắc hẳn tất cả các độc giả có đọc bài này của tôi, cũng đồng ý rằng, từng người người Việt Nam một, cho dù xuất thân trong những điều kiện khác biệt to lớn, đều xứng đáng được bước đi trên Đại Lộ Tự Do, thay vì Đại Lộ Nô Lệ, mà những sai lầm nối tiếp của nhiều con người tham vọng và mơ mộng trong lịch sử một trăm năm, đã dẫn dắt những dân tộc khổ đau, trong đó có Việt Nam bước vào.

Và hẳn chúng ta cũng có thể chia sẻ với nhau rằng: Nếu như càng ngày càng có nhiều những người Việt Nam trẻ tuổi, và đang sở hữu nhiều điều kiện tốt hơn hẳn những thế hệ cha anh, có thể dành nhiều thời gian hơn để nghĩ về những gì đã, và đang xảy ra trên mảnh đất thân yêu này, cũng như nghĩ về những ước mơ mà chúng ta muốn hiện thực hóa trong những thế hệ tiếp theo của chúng ta, chúng ta đều có thể chung tay, làm những điều dù là nhỏ bé nhất, trong hoàn cảnh và phù hợp với điều kiện, sức lực của mỗi người, để góp phần cải tạo lại mảnh đất đau thương này.

Mỗi ngày, chúng ta có thể gieo xuống mảnh đất đó những hạt mầm khỏe mạnh. Chúng ta sẽ nuôi dưỡng chúng, chăm sóc chúng, làm bất cứ điều gì có thể để bảo vệ chúng, và chờ đến một ngày, chúng ta lại có thể nhìn thấy chúng trưởng thành rực rỡ, đơm hoa kết trái, không phải trên Đại Lộ của Nô Lệ, mà sẽ là trên một đại lộ mới có tên Đại Lộ TỰ DO.

Tác Giả: Từ Liên.

Phần 4: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.

Chủ Nghĩa Phát Xít Và Chủ Nghĩa Xã Hội Chỉ Là Những Tên Gọi, Hình Thức Khác Nhau Của Chủ Nghĩa Độc Tài Toàn Trị.

CHỦ NGHĨA PHÁT XÍT VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CHỈ LÀ NHỮNG TÊN GỌI, HÌNH THỨC KHÁC NHAU CỦA CHỦ NGHĨA ĐỘC TÀI TOÀN TRỊ.

Phần 1: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác giả: Từ Liên.

Phần 2: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek — Tóm Tắt. Tác Giả: Từ Liên.

Phần 3: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.

Trong những năm gần đây, thế giới đã chứng kiến những sự kiện xuất hiện ở một vài quốc gia Châu Âu, và đặc biệt là ở Hoa Kỳ, khiến cho nhiều người liên tưởng tới sự nảy sinh của những mầm mống CNXH, ở những vùng đất nằm bên ngoài những quốc gia vẫn còn theo hệ thống này trong thời kỳ hiện đại.

Trong bối cảnh như vậy, dường như nhiều quốc gia đã quên rằng từ cách nay hơn một thế kỷ, đã có những nhà nghiên cứu kinh tế, chính trị, xã hội, trong đó có Alexis de Tocqueville, có Hayek, bằng những khảo cứu nghiêm túc về lịch sử của xã hội loài người, bằng những quan sát và trải nghiệm thực tiễn của họ, đã liên tục cảnh báo nhân loại, rằng có rất nhiều nguy cơ luôn rình rập xung quanh cuộc sống của con người để đánh lừa con người và dụ dỗ họ đi ra khỏi cánh cửa rộng mở của thế giới của chủ nghĩa tự do và chui vào trong tấm lưới sắt “chủ nghĩa độc tài toàn trị“.

Xin được trích nguyên văn ở đây những nhận xét của tác giả Hayek cách nay gần 80 năm về điều này:

Nhưng trong mấy năm gần đây [ Thời điểm Hayek viết cuốn sách này, 1942-1943 ], các ý kiến bàn về những hậu quả không thể lường được của chủ nghĩa xã hội, tưởng như đã rơi vào quên lãng từ lâu, lại được gióng lên với một sức mạnh mới và từ những hướng bất ngờ nhất. Các nhà quan sát, hết người này đến người khác, xuất phát từ những xu hướng hoàn toàn trái ngược nhau, ĐÃ NHẬN RA SỰ TƯƠNG ĐỒNG ĐẾN KINH NGẠC GIỮA CHỦ NGHĨA PHÁT XÍT VÀ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN. Trong khi những người “tiến bộ” ở Anh và ở một số nơi khác tiếp tục tự lừa mình rằng chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát xít là những hiện tượng trái ngược nhau thì càng ngày càng có nhiều người tự hỏi rằng phải chăng các chính thể chuyên chế mới nổi đó có cùng cội rễ.

Kết luận mà Max Eastman, một người bạn cũ của Lenin, rút ra đã làm cho ngay cả những người cộng sản cũng phải choáng váng. “Chủ nghĩa Stalin”, ông viết, “không những không tốt hơn mà còn xấu hơn cả chủ nghĩa phát xít vì nó tàn nhẫn hơn, dã man hơn, bất công hơn, vô luân và thiếu dân chủ hơn, không thể biện hộ bằng hi vọng hay sám hối”. Rồi ông viết tiếp: “Đúng hơn, phải gọi nó là siêu phát xít” khi nó [ tìm mọi biện pháp ] để theo đuổi quá trình quốc hữu hóa và tập thể hóa, và xây dựng xã hội phi giai cấp”.

Ghi nhận của Eastman là rất đáng chú ý, nhưng đây không phải là trường hợp duy nhất khi một nhà quan sát vốn có thiện cảm với các cuộc thí nghiệm ở Nga rút ra kết luận tương tự. Mấy năm trước, William Henry Chamberlin, một nhà báo Mĩ từng sống ở Nga suốt mười hai năm, đã chứng kiến sự đổ vỡ tất cả các lí tưởng của mình khi ông tiến hành tổng kết những điều quan sát được và so sánh kinh nghiệm ở Liên Xô với kinh nghiệm ở Đức và Ý: “Chủ nghĩa xã hội, ít nhất là trong những giai đoạn đầu, không phải là con đường dẫn tới tự do mà là tới chế độ độc tài và các phong trào chống lại độc tài, dẫn tới những cuộc nội chiến khốc liệt nhất. Giành và giữ chủ nghĩa xã hội bằng các phương pháp dân chủ, hòa bình dĩ nhiên là điều không tưởng”.

Frederick Augustus Voigt, một nhà báo người Anh, sau khi quan sát các sự kiện ở Châu Âu, cũng rút ra kết luận tương tự như thế: “Chủ nghĩa Marx đã dẫn đến chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa xã hội quốc gia vì về bản chất nó chính là chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa xã hội quốc gia”.

Còn Walter Lippmann thì tin rằng: “Thế hệ chúng ta, bằng chính kinh nghiệm của mình, sẽ nhận ra rằng từ bỏ tự do nhân danh tổ chức cưỡng bức sẽ đưa người ta đến đâu. Tưởng rằng sẽ được giàu sang, ai ngờ trên thực tế người ta lại trở thành nghèo túng. Còn khi lãnh đạo có tổ chức được tăng cường thì cũng là lúc tính đa dạng phải nhường chỗ cho sự đơn điệu. Đấy là cái giá phải trả cho xã hội được lập kế hoạch và cách tổ chức công việc của con người theo lối độc tài”

Có thể tìm thấy vô số những điều khẳng định tương tự trong các tác phẩm được công bố mấy năm gần đây, đặc biệt là của những người vốn là công dân của các nước đã bước chân lên con đường phát triển toàn trị,những người từng trải qua giai đoạn chuyển đổi và buộc phải xem xét lại quan điểm của mình là có sức thuyết phục hơn cả. Xin dẫn ra ở đây một lời phát biểu nữa, của một người Đức, có thể cũng nói ý tương tự, nhưng thể hiện rõ hơn bản chất của vấn đề.

Niềm tin vào tính khả thi của tự do và công bằng theo lí luận của Marx đã hoàn toàn đổ vỡ, Peter Drucker viết, “đấy chính là lí do thúc đẩy nước Nga bước lên con đường dẫn tới xã hội toàn trị, đầy cấm đoán, phi kinh tế, thiếu tự do và đầy bất công mà nước Đức đã theo. Không, chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa phát xít không phải là những thực thể giống nhau. Chủ nghĩa phát xít là giai đoạn tiếp theo, sau khi chủ nghĩa cộng sản đã chứng tỏ rằng đấy chỉ là một ảo tưởng, như đã từng xảy ra ở Nga dưới thời Stalin cũng như ở Đức trước khi Hitler cướp được chính quyền.

Sự chuyển hóa về mặt trí tuệ của các lãnh tụ quốc xã và phát xít cũng có ý nghĩa không kém. Những người theo dõi quá trình phát triển của các phong trào này ở Ý hay ở Đức, không thể không ngạc nhiên khi thấy rất nhiều lãnh tụ, từ Mussolini trở xuống, kể cả Pierre Laval ( một trong những lãnh tụ Đảng cộng sản Pháp), và Vidkun Quisling ( một trong những lãnh tụ của đảng Cực Hữu Na Uy ), đã khởi đầu như những người xã hội chủ nghĩa, để cuối cùng trở thành những tên phát xít hay quốc xã.

Và điều gì đúng đối với các lãnh tụ thì còn đúng hơn đối với các đảng viên bình thường của phong trào nữa… [ Đường về Nô lệ, Trang 135 – 138 ]

Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, chủ nghĩa phát xít đã chính thức đầu hàng quân đồng minh ở cả ba quốc gia Đức, Ý, Nhật. Những đảng phát xít ở những quốc gia này bị buộc phải giải thể, bị xóa sổ và nhiều thành viên của chúng bị quy là tội phạm chiến tranh, bị xử tội ở các tòa án hình sự quốc tế. Tuy nhiên, những gốc rễ của thứ chủ nghĩa này vẫn hoàn toàn chưa bị tiêu diệt ở nhiều nơi trên thế giới.

Các Đảng toàn trị còn lại, đứng đầu là Đảng Cộng Sản Liên Xô và Đảng Cộng Sản Trung Quốc, tiếp tục tồn tại dưới danh nghĩa các nhà nước xã hội chủ nghĩa, đã thu hút được một lực lượng khổng lồ quần chúng nhân dân ở khu vực Đông Âu và một phần Á Châu. Hậu quả tai hại của những công cuộc cai trị này, đã được người dân của một số các quốc gia, trong đó có nhiều các quốc gia Đông Âu từng bị xáp nhập vào Nga, nổi bật là Ba Lan, nhận ra. Nhưng vẫn còn có những quốc gia khác, hoặc do người dân chưa nhận thức đầy đủ thực trạng của mình, hoặc do bè lũ lãnh đạo độc tài đã cài cắm, đã ăn sâu bám rễ quá mạnh trong đời sống của dân chúng, hút máu họ, khiến họ kiệt sức, không còn đủ nội lực để tự giải phóng mình khỏi sự cai trị đó. Họ vẫn phải tiếp tục sống thân phận Nô Lệ, cho dù hiện nay nhân loại đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp Tự Do Hóa con người.

MARX NÓI: TÔN GIÁO LÀ THUỐC PHIỆN CỦA NHÂN DÂN! THUỐC PHIỆN CỦA ĐẢNG DÀNH CHO NHÂN DÂN LÀ GÌ?

Như trong những phần trước, tôi cũng đã đề cập sơ lược đến những “liều thuốc phiện” mà các lý thuyết chủ nghĩa xã hội / chủ nghĩa phát xít / chủ nghĩa toàn trị, đã luôn chuẩn bị sẵn và tìm mọi cách để mời mọc những thành viên mới gia nhập vào hàng ngũ của mình. Liều thuốc đó thường kèm theo công thức sau đây:

Các lãnh đạo tiềm năng của các đảng độc tài toàn trị sẽ cung cấp cho (1) những trí thức mơ mộng và thường là đang có sẵn những bất mãn với điều kiện hiện tại của họ, (2) các thành phần “tiểu tư sản” có sở hữu một số tài sản nào đó, điều mà cả hai dạng người này cần: Cảm giác rằng tài năng của mình được trọng dụng, được đánh giá xứng đáng, cảm giác được trở thành vị cứu tinh của nhân loại, thỏa mãn tính háo danh của một số người, và cũng đem lại cả cảm giác an ủi to lớn rằng trí tuệ, tài sản của mình được sử dụng để làm những điều vĩ đại, đem lại lợi ích cho nhân loại [ Trong đó có cả những cá nhân có lòng nhiệt thành thực sự ]. (3) Với quần chúng nhân dân nghèo khổ, ít được tiếp cận với giáo dục [ Những gia đình nông dân, công nhân ], họ sẽ nhấn mạnh vào hoàn cảnh nghèo khổ của những người này, nhấn mạnh vào lòng căm thù họ cần phải có đối với những người giàu có hơn, tinh hoa hơn họ, nhấn mạnh rằng giấc mơ thịnh vượng, hùng cường của xã hội chủ nghĩa chắc chắn sẽ đến với họ.

Người nào còn do dự, lưỡng lự trước những lời hứa to lớn của chúng, chắc chắn sẽ có những đội ngũ tuyên truyền, làm công tác tư tưởng, tác động từ vòng trong tới vòng ngoài, từ xa tới gần, từ khuyên nhủ tới đe nẹt, từ những người bà con, đồng nghiệp, những người thân thương nhất của họ, đến khi họ phải lung lay. Người nào vẫn chống đối, kiên quyết, thì sẽ có sẵn lực lượng an ninh, mật vụ, công an chìm nổi, sẵn sàng sử dụng những biện pháp bằng vũ lực để dọa dẫm hoặc hành động thẳng tay, khiến cho họ phải quy phục.

Cũng bằng những cách thức như vậy, các Đảng độc tài, phát xít sẽ khéo léo cài cắm người vào mọi tổ chức dân sự, các tổ chức tôn giáo, các tổ chức học thuật, các tổ chức kinh tế, xã hội ở các quy mô khác nhau. Họ cũng thường xuyên “nặn” ra những cơ sở y như thật và tồn tại trên thực tế để lừa bịp dân chúng. Họ xây những thánh đường Hồi Giáo đẹp [ Ở Tân Cương Trung Quốc ], những Chùa chiền, đền tháp lộng lẫy, những Nhà Thờ tráng lệ, những Học Viện [ Chẳng hạn như Học Viện Khổng Tử ], những Mặt Trận Tổ Quốc, các tổ chức dân sự, kinh tế, từ thiện khác, với vẻ bề ngoài y như là những cơ sở do các nhóm tôn giáo, xã hội của những người dân tạo ra cho chính lợi ích của họ.

Tuy nhiên, những cơ sở này chỉ được sử dụng cho mục đích tuyên truyền của các Đảng độc tài, được quảng bá rầm rộ với những mục tiêu tiêu tốt đẹp nhất, đánh thẳng vào niềm tin của hàng chục triệu người dân thơ ngây và mù quáng. Những cơ sở đội lốt các cơ sở dân sự, tôn giáo này được lãnh đạo bởi các đảng viên trung kiên, và có hẳn một mạng lưới an ninh, tuyên truyền rộng lớn hỗ trợ họ, một mặt, để đưa nhiều người dân của những xứ này vào bẫy độc tài toàn trị, mặt khác, tạo ra hình ảnh giả tạo, nhưng đẹp đẽ, khoan dung của họ, trước con mắt của toàn dân và thế giới.

Bằng những biện pháp “tinh xảo” và phối hợp với nhau một cách có hệ thống chặt chẽ như vậy, bè nhóm của những người theo chủ nghĩa tộc tài toàn trị đã có thể bắt đầu thực thi việc xây dựng một nhà nô lệ theo ý định của họ, mà gặp rất ít cản trở từ phía dưới đẩy lên. Trong đó, họ khéo léo thay thế những niềm tin tôn giáo của dân chúng thành niềm tin vào Đảng của họ, họ biến những lãnh tụ độc tài tối cao của họ thành những lãnh tụ “tôn giáo” trong học thuyết tư tưởng của họ. Trên thực tế, dưới nhiều “lốt” khác nhau, họ chính là những người chủ nô cai trị đám đông cuồng nhiệt còn lại.

Một ví dụ cụ thể được nhà nghiên cứu Ma Tianjie viết trong bài viết “Khi Marx gặp Hồi Giáo” [ When Marx Meets Islam: https://foreignpolicy.com/2017/03/31/when-marx-meets-islam-china-religious-ethnic-policy-tension-weibo/%5D, chỉ ra:

Đảng Cộng Sản vô thần chính thức đã thấy quan điểm của mình thay đổi đáng kể về vấn đề hóc búa này [ Họ tuyên bố Đảng vô thần nhưng lại thần thánh hóa các lãnh tụ độc tài ] trong nhiều thập kỷ. Nó đã chuyển từ sự “tán tỉnh” trong những năm đầu vì lợi ích xây dựng liên minh chính trị, mở ra sự thù địch trong những nhóm khác nhau, mà điều này hoàn toàn là do kết quả của các cuộc đấu tranh chính trị nội bộ gây ra, rồi chuyển sang hòa giải trong những ngày đầu của thời kỳ Cải Cách và Mở Cửa, và cuối cùng là sự mơ hồ thận trọng xác định cách tiếp cận của nó ngày nay“.

Ở một đoạn khác, ông cũng ví tư tưởng Mao của Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng không khác nhiều hệ tư tưởng của những người Hồi Giáo quá khích, mà ông gọi là “hệ tư tưởng Mao cuồng tín“.

Thật ra, tất cả những điều này đã được nhiều nhà nghiên cứu lỗi lạc nhìn thấy từ cách chúng ta rất lâu, và vẫn luôn cố gắng cảnh báo cho chúng ta bằng nhiều cách khác nhau. Tuy nhiên, ở các xứ độc tài toàn trị trong thời kỳ hiện tại, người ta vẫn thấy vở kịch này được diễn lại, với những đạo diễn và những nhà biên kịch là những nhà ngụy biện và những nhà văn viết chuyện viễn tưởng giỏi nhất trong lịch sử nhân loại.

Mặc dù, nếu cẩn thận quan sát, người ta vẫn nhìn những cảnh báo về “mối nguy hại mà Đảng Cộng Sản” có thể gây ra cho nhân loại ở nhiều quốc gia, như những ví dụ dưới đây:

Ở Nhật Bản: Chủ nghĩa xã hội và cánh tả đã thất bại như thế nào [ How socialism and the left wing failed in Japan: https://www.japantimes.co.jp/news/2019/12/30/national/politics-diplomacy/socialism-japan/%5D.

Ở Đức: Các quan chức bầu cử cấm Đảng Cộng sản Đức tranh cử [ Election officials ban German Communist Party from running candidates: https://www.peoplesworld.org/article/election-officials-ban-german-communist-party-from-running-candidates/%5D.

Ở Ukraine: Đảng Cộng sản Ukraine ‘bị cấm’ đưa ra ứng cử viên cho Cuộc bầu cử Tổng Thống [ ‘Banned’ Ukrainian Communist Party puts forward candidate for Presidential Elections: https://khpg.org/en/1546645733 ].

Ở Nga: Cấm các ứng cử viên lãnh đạo Đảng Cộng Sản tham gia bầu cử [ Leading Communist barred from election by Kremlin : https://www.thetimes.co.uk/article/communist-party-candidate-unable-to-stand-against-putin-in-russian-elections-d3vzw6xlz ].

Ở Italy: Những người bảo thủ đề xuất luật cấm hoàn toàn chủ nghĩa cộng sản và Đảng Hồi Giáo ở Ý [ Conservatives Propose Law to Outright Ban Communism, Islamism in Italy: https://www.breitbart.com/europe/2021/06/08/conservatives-propose-law-to-outright-ban-communism-islamism-in-italy/ ].

Ở Trung Quốc: Đảng cộng sản ra sức đàn áp những tôn giáo khác, đặc biệt là những tôn giáo độc thần, có niềm tin mạnh mẽ, và sẵn sáng tiến tới chủ nghĩa độc tài, chẳng hạn như Islam giáo.

Trong khi đó, phần lớn các quốc gia Islam không chấp nhận chủ nghĩa xã hội / chủ nghĩa cộng sản, xuất phát từ lý do họ không công nhận những chính phủ và những con người vô thần.

Nếu ai quan sát kỹ danh sách những quốc gia có xu hướng cấm đảng cộng sản hoạt động, người ta sẽ thấy dẫn đầu thường là những quốc gia đã từng có thời gian bị đặt dưới sự lãnh đạo của chủ nghĩa phát xít hoặc chủ nghĩa xã hội, hoặc những quốc gia trong thời điểm hiện tại vẫn đang tồn tại một bộ máy cai trị theo kiểu độc tài, toàn trị.

Câu hỏi là: Do những quốc gia này có những trải nghiệm đau thương về chủ nghĩa phát xít hoặc chủ nghĩa cộng sản, nên họ hiểu những tai hại mà thứ chủ nghĩa này mang lại, hay còn có những ẩn ý nào khác nữa khiến họ phải có những biện pháp kiềm chế hoạt động của chủ nghĩa cộng sản ở quốc gia của họ?

Ngay cả câu trả lời cho những thắc mắc này cũng đã được Hayek và nhiều nhà nghiên cứu khác gợi ý cách đây đã gần 80 năm, xin được trích nguyên văn như sau:

Không có gì ngạc nhiên khi chứng kiến cảnh, ở Đức trước năm 1933 và ở Ý trước năm 1922, cộng sản và quốc xã hay phát xít thường xuyên xung đột với nhau hơn là xung đột với các đảng phái khác. Đấy là vì họ cạnh tranh với nhau trong việc thu phục những người có cùng não trạng và căm thù nhau vì đảng này coi đảng kia là những kẻ dị giáo, NHƯNG HÀNH ĐỘNG CỦA HỌ LẠI CHỨNG TỎ RẰNG ĐẤY LÀ NHỮNG KẺ ĐỒNG HỘI ĐỒNG THUYỀN. Kẻ thù thực sự của cả hai đảng, người chẳng có gì chung với họ, người mà họ chẳng thể nào thuyết phục được lại chính là người theo chủ nghĩa tự do kiểu cũ. Trong khi quốc xã coi cộng sản, cộng sản coi quốc xã và cả hai đều coi những người xã hội chủ nghĩa là đội dự bị tiềm năng của mình, thì họ lại nhận thức rõ rằng sẽ không bao giờ có chuyện thỏa hiệp giữa họ và những người thực sự tin tưởng vào quyền tự do cá nhân.

Giáo sư Eduard Heimann, một trong các lãnh tụ của phong trào xã hội chủ nghĩa mang màu sắc tôn giáo ở Đức, trong bài báo với tựa đề tuyệt vời là “Tái phát hiện chủ nghĩa tự do” đã viết như sau: “Chủ nghĩa Hitler tự tuyên bố là học thuyết dân chủ và chủ nghĩa xã hội đích thực… Chủ nghĩa Hitler còn đi xa hơn khi tuyên bố là người bảo vệ Thiên Chúa Giáo, và sự thật kinh hoàng là ngay cả sự diễn giải sai lầm thô bạo như thế vẫn tạo ấn tượng đối với một số người. Giữa sự mù mờ và tráo trở đó vẫn có một điều chắc chắn: không bao giờ Hitler tuyên bố là người ủng hộ chủ nghĩa tự do chân chính cả. Nghĩa là chủ nghĩa tự do là học thuyết bị Hitler căm ghét nhất”. Cần nói thêm rằng Hitler không có điều kiện thể hiện lòng căm thù của mình vì khi hắn lên cầm quyền thì chủ nghĩa tự do ở Đức hầu như đã chết hẳn rồi. Chính chủ nghĩa xã hội đã giết chết nó.

Đối với những người có điều kiện quan sát sự chuyển hóa từ chủ nghĩa xã hội sang chủ nghĩa phát xít ở khoảng cách tương đối gần thì mối liên hệ của hai học thuyết này càng đặc biệt rõ, CHỈ CÓ Ở NHỮNG NƯỚC DÂN CHỦ THÌ MỚI CÓ NHIỀU NGƯỜI TIẾP TỤC NGHĨ RẰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CÓ THỂ KẾT HỢP ĐƯỢC VỚI TỰ DO MÀ THÔI… [ Ở những nơi mà ], tất cả các mối liên hệ của các khía cạnh này chưa được làm rõ, thì nhiều người sẽ vẫn không tin rằng chủ nghĩa xã hội dân chủ là một giấc mơ địa đàng ( Utopia ) vĩ đại của mấy thế hệ gần đây, nó không chỉ là bất khả thi, mà cố gắng nhằm hiện thực hóa nó nhất định sẽ dẫn đến những kết quả tồi tệ khác hẳn và hoàn toàn không thể chấp nhận được đối với những người hôm nay đang ủng hộ nó [ Trang 138-141 ].

Là những con người ra đời ở những thế hệ sau, có điều kiện chứng kiến, hoặc đọc lại toàn bộ lịch sử thế giới từ sau thế chiến thứ II đến hiện nay, hẳn nhiều người cũng đồng ý rằng, những nhận định của Hayek về chủ nghĩa phát xít cũng như chủ nghĩa cộng sản, và các hình thức khác của chúng nữa là gần như hoàn toàn chính xác.

Hẳn là hình thức cai trị và tàn sát người dân trên quy mô lớn, nhân danh những mục đích cao cả, dưới những tên gọi và hình thức khác nhau được liệt kê ở dưới đây, không bao giờ có thể tìm được chỗ đứng trong những nền dân chủ tự do:

Chủ nghĩa phát xít đã phát minh ra hình thức các Trại Tập Trung; Chủ nghĩa xã hội của Liên Xô đã lập ra Các trại cải tạo lao động, theo sau là Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng xây dựng hàng loạt các Trại tập trung cải tạo, mà đặc biệt hơn ở chỗ là những trại này vẫn còn tồn tại đến tận thời điểm hiện tại.

[ Vào năm 2017, khi Việt Nam háo hức kỷ niệm 100 năm Cách Mạng Tháng Mười Nga, Giáo sư Stephen Kotkin đã viết trên The Wall Street Journal rằng chủ nghĩa cộng sản đã giết chết ít nhất 65 triệu người từ năm 1917 đến năm 2017 [ Communism’s Bloody Century: https://www.wsj.com/articles/the-communist-century-1509726265 ]. Cùng năm đó, nhà nghiên cứu David Satter, còn cho rằng có khoảng 100 triệu ngưới đã bị Đảng Cộng Sản Liên Xô sát hại bằng nhiều hình thức khác nhau trong 100 năm qua [ 100 Years of Communism—and 100 Million Dead: https://www.wsj.com/articles/100-years-of-communismand-100-million-dead-1510011810 ], và ông gọi Đảng Cộng Sản Liên Xô là thảm họa lớn nhất trong lịch sử.

Dưới một hình thức khác, Tổ chức Khmer Đỏ ở Campuchia, ( Khmer Rouge, tức Đảng Cộng Sản ở Campuchia do PolPot lãnh đạo ): Diệt chủng khoảng 1/3 trong tổng số 7 triệu người dân Cambodia.

Mặt Trận Yêu Nước Rwandan ( The Rwandan Patriotic Front ): Diệt chủng khoảng trên dưới 1 triệu người, trong đó có 70% dân số người Tutsi, 30% người Pygmy trong 100 ngày từ 7 Tháng Tư đến giữa Tháng Bảy năm 1994.

Một nghiên cứu khác của Đại học Hawaii do Giáo sư R.J. Rummel xuất bản vào năm 1991, có tên “Thế kỷ đẫm máu của Trung Quốc” [ China’s Bloody Century: https://hawaii.edu/powerkills/NOTE2.HTM ], tổng kết rằng:

Chế độ ngụy dân chủ [ Democide ] như vậy phổ biến hơn nhiều so với những gì người ta vẫn tưởng, thậm chí còn lớn hơn nhiều lần so với con số thiệt mạng trong tất cả các cuộc chiến của thế kỷ này.

Có 61,911,000 người đã bị Liên Xô sát hại, 38,702,000 bị giết bởi những người cộng sản Trung Quốc, 10,114,000 bị giết bởi những người theo chủ nghĩa dân tộc Trung Quốc, 17,000,000 chết bởi Đức Quốc Xã và 5,890,000 bởi quân phiệt Nhật Bản trong Thế Chiến Thứ Hai. Điều này thậm chí không làm cạn kiệt danh sách những kẻ giết người lớn của thế kỷ này, bao gồm các chính phủ trong quá khứ của Thổ Nhĩ Kỳ, Campuchia, Pakistan, Nam Tư; cũng không bao gồm những kẻ giết người ít hơn nhưng cũng phải chịu trách nhiệm cho hàng trăm nghìn cái chết, chẳng hạn như các chính phủ trong quá khứ của Uganda, Indonesia, Albania, Burundi, Tiệp Khắc, Ethiopia, Hungary, Romania, Tây Ban Nha và Việt Nam.

Tóm lại, hơn 100,000,000 người đã bị chính phủ của họ sát hại kể từ năm 1900, nhiều hơn gấp nhiều lần so với 35,654,000 người chết vì tất cả các cuộc chiến tranh trong và ngoài nước xảy ra trong những năm này, bao gồm cả Thế chiến I và II“.

Tôi cho rằng, những con số hẳn không biết nói dối, hoặc chỉ có thể nói dối rất ít thôi. Nhiều bằng chứng lịch sử đã được tìm ra và được lưu giữ cẩn thận bởi các nhà nghiên cứu và thân nhân của những người tử nạn dưới các chế độ độc tài toàn trị trên khắp thế giới.

Nhờ có mạng lưới Internet phủ khắp toàn cầu mà ngày nay người ta hoàn toàn có thể kiểm chứng những dự đoán của Hayek cách nay đã gần 8 thập niên.

Tôi có lòng tin chắc chắn rằng, nhiều người trong số các độc giả, cũng như những thần dân của các chế độ độc tài toàn trị, có thể đọc, và hiểu, và có những cảm xúc khác nhau về những con số này, cả ở trên mặt báo, lẫn những gì “phía sau những dòng chữ” đó.

Ở đây, sự thật có thể là khó chấp nhận nhất đối với nhiều người thường xuyên phê phán chủ nghĩa phát xít và ca ngợi chủ nghĩa xã hội chính là CHỦ NGHĨA PHÁT XÍT VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI / CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN, chỉ là những hình thức khác nhau của chủ nghĩa độc tài toàn trị. Nhưng sự thật thì chỉ có Một.

Đại Lộ Nô Lệ được xây dựng trên máu, hồ hôi và nước mắt của hàng trăm triệu con người nô lệ. Đích đến của nó là Nhà Tù và chế độ Nô lệ.

Dĩ nhiên, việc khai phá Đại Lộ Tự Do chắc chắn cũng phải trả bằng mồ hôi, máu, và nước mắt tương xứng, của ít nhất là vài thế hệ. Nhưng điểm đến cuối cùng của nó là Tự Do và những giá trị lớn lao hơn mà tự do mang lại cho mỗi người.

Nếu như con đường nào cũng đánh đổi bằng mồ hôi, xương máu, nước mắt và hy sinh. Tại sao chúng ta lại phải chọn con đường về Nô Lệ?

Đằng nào cũng là xương máu của chúng ta. Tại sao chúng ta lại chọn hy sinh chỉ để trải đường cho một bộ phận lãnh đạo không có tài, đức, cũng như lòng thương xót đối với dân tộc của mình, bước lên đỉnh cao của vinh quanh và nô dịch chúng ta?

Thay vì xương máu đó là để cho chúng ta, cho gia đình, cộng đồng và cho toàn thể dân tộc của chúng ta?

Tôi chắc chắn rằng GS Hayek, từ cách thời đại mà chúng ta sống 80 năm, hẳn cũng rất mong mọi người sẽ suy nghĩ nghiêm túc về câu hỏi này.

Phần 1: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác giả: Từ Liên.

Phần 2: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek — Tóm Tắt. Tác Giả: Từ Liên.

Phần 3: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.

Tác Giả: Từ Liên.

Phần 3: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.

Tại sao chế độ xã hội chủ nghĩa không bao giờ có thể đạt được sự thịnh vượng ở trong thế giới thực như những lý tưởng mà nó đã truyền bá.

Phần tóm tắt này, tôi sẽ dành để tóm tắt và phân tích luận điểm thứ ba của GS Friedrich von Hayek:

TẠI SAO CHẾ ĐỘ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA KHÔNG BAO GIỜ CÓ THỂ ĐẠT ĐƯỢC SỰ THỊNH VƯỢNG Ở TRONG THẾ GIỚI THỰC NHƯ NHỮNG LÝ TƯỞNG MÀ NÓ ĐÃ TRUYỀN BÁ.

Phần 1: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác giả: Từ Liên.

Phần 2: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek — Tóm Tắt. Tác Giả: Từ Liên.

Phần 4: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.

Có hai thứ chủ nghĩa mà tính đối lập nhau của nó là khá rõ ràng và có thể quan sát được trong lịch sử cận hiện đại của thế giới. Chủ Nghĩa Tư Bản, được tôn vinh bởi những người tin vào chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do, và Chủ Nghĩa Xã Hội, được đề cao bởi những người tin vào chủ nghĩa tập thể, rồi phát triển thành chủ nghĩa toàn trị, sau đó, nó chia thành hai hoặc nhiều hơn các nhánh, trong đó có XHCN và Chủ Nghĩa Phát Xít.

“Chủ nghĩa cá nhân, có nguồn gốc từ Thiên Chúa Giáo và triết học cổ đại, vào thời Phục Hưng đã được thể hiện một cách trọn vẹn và đặt nền móng cho cái mà ngày nay chúng ta gọi là nền văn minh phương Tây. Đặc điểm chủ yếu của nó LÀ SỰ TÔN TRỌNG CÁ NHÂN CON NGƯỜI VỚI NHỮNG ĐẶC ĐIỂM RIÊNG BIỆT CỦA HỌ, nghĩa là trong sinh hoạt, dù đấy có là lĩnh vực đặc thù đến đâu, con người hoàn toàn có quyền giữ các quan điểm cũng như sở thích riêng của mình và niềm tin rằng mỗi người cần phải phát triển những năng khiếu đã được tạo hóa ban cho anh ta. Chủ nghĩa tự do cũng thường đi kèm với một giá trị quan trọng của nó, là “Khoan dung” [ Phải có sự khoan dung thì mới có chấp nhận sự khác biệt cũng như những nhu cầu khác biệt của những con người cá nhân riêng biệt ]. “Những từ này đã truyền đạt được ý nghĩa của các lí tưởng và giá trị từng ngự trị trên bầu trời suốt mấy thế kỉ qua và chỉ gần đây mới ngả dần về phía chân trời để rồi biến mất hẳn cùng với sự xuất hiện của nhà nước toàn trị” [ Trang 111-112 ].

Ở những nơi chủ nghĩa tự do phát triển, nó đồng thời cũng kéo theo “Sự nổi dậy của cá nhân chống lại cộng đồng”, biến nó thành “thứ bệnh kinh niên của phương Tây”. Tuy nhiên, việc các cá nhân có những suy nghĩ khác biệt và có những suy nghĩ vượt lên khỏi cộng đồng, lại cũng là động lực phát triển to lớn của các quốc gia Phương Tây trong suốt chiều dài lịch sử. Bất cứ xã hội nào không thể chấp nhận điều này, không tạo điều kiện cho các cá nhân kiệt xuất hơn số đông còn lại được tiến lên phía trước và tạo ra những cuộc cách mạng rực rỡ trong các lĩnh vực khác nhau, cũng có nghĩa là nó từ chối sự phát triển và thịnh vượng, cũng như từ chối quyền làm người tự do của những công dân bình thường trong xã hội.

Quá trình này đem lại kết quả ngoài mọi sự mong đợi. Ở bất cứ nơi nào, khi mà các rào cản đối với sự sáng tạo của con người được dỡ bỏ thì người ta đều có điều kiện đáp ứng các nhu cầu ngày càng gia tăng của mình… Và khi tiêu chuẩn của cuộc sống được nâng lên thì người ta lại phát hiện ra, quá trình này đã mang lại lợi ích cho tất cả các giai cấp… Thành công đã vượt mọi ước mơ ngông cuồng nhất: đến đầu thế kỉ XX người công nhân ở phương Tây đã đạt được mức độ sung túc về vật chất, sự độc lập và niềm tin vào tương lai mà một trăm năm trước tưởng như không thể nào với tới được” [ Trang 116 ].

“Nếu xem xét giai đoạn này trong một viễn cảnh lịch sử rộng lớn hơn thì phải nói rằng cảm giác hoàn toàn mới về quyền lực của con người đối với số phận và niềm tin vào khả năng cải thiện không giới hạn điều kiện sống của mình chính là kết quả có ý nghĩa nhất của tất cả các thành tựu đó” [ Trang 117 ].

Mặt khác, thành công lại sinh ra tham vọng mới, những thành tựu đã đạt được trong bước đầu này này lại đẩy con người đến tiến đến khao khát những những lý tưởng cao hơn, là có thể cải thiện điều kiện sống cho toàn thể cộng đồng lớn hơn những cộng đồng người đã đạt được những mức độ văn minh nhất định, tức vượt khỏi biên giới của các thành thị và các quốc gia Tây Âu.

Khát vọng này đã trở thành mầm mống của CNXH và CNCS bởi vì nó đã được một số những nhà tư tưởng, mơ mộng, tự tin thái quá, và dường như thiếu cái nhìn bao quát về toản cảnh của thế giới, nhồi nhét vào đầu óc của mộ bộ phận dân chúng còn kém nhận thức, rằng chỉ trong một thời gian rất ngắn, bằng việc huy động được toàn lực của cải vật chất, sức lao động và thu lại toàn bộ quyền tự do của mọi người dân, để họ quên đi bản thân họ hoàn toàn, và tập trung toàn lực cho đời sống cộng đồng, quốc gia, thì họ sẽ có khả năng biến những lý tưởng của CNXH thành hiện thực.

Khéo léo hơn, những nhà XHCN không tưởng này còn hứa hẹn với người dân của họ rằng, việc cống hiến tài sản, sức lực và quyền tự do của họ để đạt được mục tiêu thịnh vượng chung, đặt nó dưới quyền cai trị của một bộ máy độc tài toàn trị, sẽ là những gì diễn ra trong một thời gian ngắn thôi, Sau khi đã đạt được mức độ “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, vượt mọi quốc gia trong thế giới tư bản, thì “nhà nước sẽ tự tiêu vong”, trả lại quyền lực và tài sản cho người dân.

Dù phần lớn các tư tưởng mới này, trong đó có chủ nghĩa xã hội, đã đã nảy mầm từ các quốc gia Châu Âu khác bên ngoài nước Đức, “Nhưng chúng đã được trau chuốt và đạt được mức hoàn thiện trên đất Đức trong hai mươi lăm năm cuối thế kỉ XIX và hai mươi lăm năm đầu thế kỉ XX”. Điều đó giải thích việc phần nhiều trong số những nhà tư tưởng mơ mộng nhất về CNXH, là người Đức. GS Hayek giải thích rằng “Các nhà tư tưởng Đức có ảnh hưởng mạnh mẽ như thế không chỉ là vì nước Đức đã đạt được những tiến bộ to lớn trong lĩnh vực sản xuất vật chất mà còn chủ yếu là vì uy tín to lớn mà trường phái khoa học và triết học Đức đã giành được trong suốt thế kỉ qua [ Thế kỷ XVIII ], tức là sau khi Đức trở thành thành viên đầy đủ và thậm chí dẫn đầu trong nền văn minh châu Âu. Nhưng chính cái uy tín đó chẳng bao lâu sau đã giúp quảng bá cho những tư tưởng phá hoại các cơ sở của nền văn minh này” [ Trang 123-124 ].

Tuy nhiên, không cần phải chờ đến tận thế kỷ XX, ngay giữa thế kỷ XIX nhiều người đã nhìn thấy rằng, những lý tưởng của XHCN sẽ sớm tan thành mây khói vì hiển nhiên những tiềm lực và điều kiện hiện tại của con người không làm sao mà biến cái ước vọng to lớn đó thành sự thật trong chốc lát được, và lại chỉ dựa vào ý chí chủ quan của những con người mơ mộng hoặc ham muốn quyền lực, hoặc cả hai.

Cũng chính người Đức, ít nhất là những người tham gia vào việc truyền bá những tư tưởng này, chỉ sau một thời gian ngắn, đã hiểu rõ cuộc xung đột giữa những lý tưởng không tưởng của họ, với điều kiện thực tế của toàn bộ Châu Âu và toàn bộ thế giới vào cuối thế kỷ XIX. Sự lạc hậu, nghèo đói, điều kiện vệ sinh kém cỏi, dân số gia tăng nhanh so với tốc độ cải tiến kỹ thuật, giáo dục còn hạn chế đối với nhiều thành phần dân chúng trên khắp thế giới, kể cả ở nhiều phần lãnh thổ của Châu Âu, hiển nhiên đã cho thấy rằng những giấc mơ thịnh vượng mà CHXH đã hứa hẹn sẽ không bao giờ có thể thực hiện được ở bất kỳ nơi đâu trên trái đất này, nếu không có (1) khoảng thời gian dài đủ để những người trưởng thành có thể lao động cật lực để làm ra một lượng của cải vật chất vừa đủ cho nhu cầu tiêu dùng của họ trong hiện tại, lại vừa phải có dư dả để đầu tư cho tương tai, (2) để những thế hệ con cháu của họ có thể được dạy dỗ cẩn thận, có đủ kiến thức, năng lực và những điều kiện vật chất để chúng có tiến tới chỗ có thể làm chủ số phận của chúng. Mà cả hai điều này lại chỉ có thể trở thành hiện thực ở những xã hội tư bản và tôn trọng tự do cá nhân.

Thế là, niềm tin bị sụp đổ về năng lực của mình, đã khiến một bộ phận những nhà tư tưởng, những người mơ mộng, phải tìm kiếm những biện pháp cực đoan với niềm hy vọng là nó có thể níu kéo những giấc mơ của họ ở lại. Và như vậy, bản thân những tư tưởng XHCN ngay từ đầu đã buộc phải gắn với nhiều biện pháp cực đoan, và sau đó là dẫn đến việc sử sụng vũ lực cũng như dẫn đến thể chế độc tài toàn trị.

“Như vậy là chủ nghĩa xã hội đã loại bỏ được chủ nghĩa tự do và trở thành học thuyết được đa số những người tiến bộ ủng hộ, không phải là vì người ta đã quên những lời cảnh báo của các nhà tư tưởng tự do tiền bối vĩ đại về hậu quả của chủ nghĩa tập thể mà vì người ta đã thuyết phục được dân chúng rằng hậu quả sẽ hoàn toàn ngược lại.

Hiện nay ít người nhớ rằng khởi thủy chủ nghĩa xã hội đã là một phong trào độc đoán. Các nhà tư tưởng Pháp, những người đặt nền móng cho chủ nghĩa xã hội, không hề nghi ngờ gì rằng phải có một chính phủ độc tài cứng rắn thì tư tưởng của họ mới có thể trở thành hiện thực được” [ Trang 129 ].

Nếu như từ nơi ươm mầm của mình, những tư tưởng CNXH, vốn đã bắt nguồn từ niềm tin dựa trên những thành tựu phát triển kinh tế và tự do chính trị thực thụ để có thể thuyết phục người dân tin theo nó, thì khi du nhập vào những quốc gia kém phát triển hơn [ Nga, Trung Quốc, Việt Nam,… ] nó đã phải dùng những biện pháp bạo lực để có thể giành chính quyền về tay mình, chứ không phải là một hình thức thuyết phục nào khác. Và ngay từ điểm mới du nhập này, những người chủ trương sẽ sử dụng hệ tư tưởng XHCN để cai trị người dân của mình trong tương lai, đã ý thức được rằng, đã có những sự khác biệt không bao giờ có thể thể dung hòa giữa hai hệ thống tư bản chủ nghĩa và xã hội, dù họ ra sức thuyết phục dân chúng rằng CNXH chính là một bước phát triển cao hơn của chủ nghĩa tư bản, trên con đường phát triển của lịch sử nhân loại.

Các nhà lãnh đạo của chủ nghĩa tư bản đã không cần đến những cuộc cách mạng dữ dội để bắt ép những người dân phải đi theo họ, trong công cuộc xây dựng cuộc sống mà người dân mong muốn. Trong khi đó, để xây dựng một xã hội theo trật tự mà họ mong muốn, chủ nghĩa xã hội đã phải dùng vũ lực để khuất phục mọi cá nhân vẫn còn tơ tưởng đến tự do cho riêng mình trong một cái quần thể những con người bị ép phải đứng vào hàng ngũ vô sản cả về vật chất lẫn tinh thần. “Quan niệm của những người sáng lập chủ nghĩa xã hội về tự do là rất rõ ràng. Họ coi tự do tư tưởng là cội nguồn của tất cả những điều xấu xa trong xã hội thế kỉ XIX. Saint Simon, ông tổ của những người ủng hộ kế hoạch hóa thời nay, thậm chí còn dự liệu rằng những người không tuân phục các bộ phận lập kế hoạch mà ông ta đề nghị sẽ bị “đối xử như súc vật” [ Trang 130 ].

Trong một bài phát biểu vào năm 1848, Alexis de Tocqueville, nhà xã hội và chính trị học vĩ đại, đã nhận thức được rằng chế độ dân chủ và chủ nghĩa xã hội sẽ luôn dẫn đến những kết quả hoàn toàn trái ngược với nhau :

Dân chủ mở rộng không gian tự do của từng con người, trong khi chủ nghĩa xã hội hạn chế tự do. Dân chủ trao cho mỗi người tất cả các giá trị khả dĩ còn chủ nghĩa xã hội lại biến mỗi người thành một kẻ thừa hành, thành một con số tròn trĩnh. Dân chủ và chủ nghĩa xã hội chỉ có một cái chung, đấy là từ: công bằng. Nhưng xin lưu ý sự khác biệt: trong khi dân chủ tìm kiếm sự công bằng trong tự do thì chủ nghĩa xã hội tìm kiếm công bằng trong xiềng xích và nô lệ” [ Trang 131 ].

[ Tuy nhiên, trong thời kỳ hiện tại, chúng ta lại đang chứng kiến giấc mơ XHCN đang có dấu hiệu sống lại ở nhiều quốc gia tư bản có nền kinh tế và chính trị phát triển ở đỉnh cao của thế giới hiện đại ].

NHỮNG NGƯỜI THEO CHỦ NGHĨA XÃ HỘI ĐÃ LỪA MỊ NGƯỜI DÂN CỦA HỌ NHƯ THẾ NÀO?

Nhằm làm dịu bớt những mối ngờ vực của người dân đối với các điều kiện quá dễ dàng để đạt được lý tưởng XHCN, và nhằm biến khát vọng tự do, một trong những động lực mạnh mẽ nhất của những người dân lao động bần hàn, những người xã hội chủ nghĩa bắt đầu sử dụng lời hứa về một nền “tự do mới”. Họ nói rằng “Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới có khả năng đưa cuộc đấu tranh vì tự do diễn ra trong nhiều thế kỉ đến thắng lợi cuối cùng”. Tuy nhiên, họ đã thay đổi hoàn toàn ý nghĩa của từ “tự do”, theo nghĩa nguyên thủy của nó, là tự do làm những gì mỗi cá nhân mong muốn, tự do phát triển trọn vẹn tiềm năng của mình, miễn là không gây hại cho việc thực hành tự do cũng như lợi ích của người khác, thành một loại tự do, theo cách họ hiểu, là tự do khỏi việc sở hữu cải vật chất, tức là chiến thắng “sự áp bức của nhu cầu vật chất”, hay chính xác là phải từ bỏ mọi quyền tự do đối với những tài sản và công cụ sản xuất của mình.

Theo nghĩa này, những người dân của chế độ chủ nghĩa xã hội không cần phải lo lắng về vật chất nữa, họ sẽ dâng nộp toàn bộ của cải vật chất của họ cho nhà nước quản lý và nhà nước sẽ phân phối lại cho toàn dân theo nhu cầu của mỗi gia đình, mỗi cá nhân. Dĩ nhiên, điều này thường được kèm “với lời hứa vô trách nhiệm về sự gia tăng chưa từng có của cải vật chất trong chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa” [ Trang 132 ].

Sự lừa đảo lớn nhất của những lời hứa này là, nó không đưa ra bất cứ lộ trình sự giải thích nào, hoặc biện pháp khả dĩ nào để giúp người ta đạt sự thịnh vượng về kinh tế, chiến thắng sự nghèo nàn của tự nhiên và con người. Lời hứa này chỉ có nghĩa là nó sẽ xóa bỏ đi sự chênh lệch về sở hữu của cải vật chất giữa những tầng lớp người khác nhau.

Theo cách hiểu như thế, những người nghèo, những người ít khả năng sẽ không cần phải làm gì để cải thiện hoàn cảnh sống của mình, họ chỉ cần ngồi đó nhìn nhà nước sẽ tịch thu tài sản của những người giàu hơn họ, có nhiều khả năng đóng góp cho xã hội hơn họ và chia lại cho họ.

Trong khi đó, những người giàu, những người có khả năng hơn cũng sẽ bị tước đoạt mọi công cụ, từ vật chất tới tinh thần, để cải thiện đời sống của mình. Tồi tệ hơn, họ bị buộc phải hạ mọi chuẩn mực mà họ từng sở hữu xuống ngang bằng hoặc thấp hơn những con người thiệt thòi hơn họ trước đây, bao gồm tài sản, địa vị, trí tuệ, lòng tự trọng, phẩm giá, lương tâm. Trên thực tế, Họ đã không còn được ban cho một cơ hội nào để có thể tiếp tục phát triển bản thân lẫn đóng góp nhiều hơn cho xã hội…

Kết quả hoàn toàn có thể hình dung được, Xã hội chủ nghĩa chính là nơi người nghèo, người thất học chờ được chính quyền ném cho những miếng bánh mà họ cướp lại người khác, trong khi những người có năng lực hơn cũng phải ngồi chờ chính quyền ném cho mình những mẩu nhỏ từ chính những gì chính quyền đã cướp đoạt từ sức lao động của mình. Trong khi đó, của cải vật chất không tự động xuất hiện mà không có lao động cật lực, không có những đầu tư to lớn về con người và công cụ lao động; Thịnh Vượng không thể đến mà không có những lao động trí tuệ và cải tiến kỹ thuật; Tự Do không thể đến mà lại không có đổ máu và chấp nhận hy sinh.

Toàn bộ công cụ sản xuất bị quốc hữu hóa, cơ chế thị trường bị xóa bỏ, chỉ còn lại cơ chế tem, phiếu từ trung ương áp xuống. Con người đã hoàn toàn không còn sự lựa chọn xem họ được mua gì, ăn gì, mặc gì, sở hữu thứ gì. Hệ quả là toàn bộ động lực sáng tạo của các cá nhân sẽ bị mai một, trí tuệ cá nhân sẽ không được khai thác. Sự mất mát này là một trong những lý do dẫn đến những nhân tai mà được coi là hoàn toàn có thể tránh được đối với các xã hội tự do, chẳng hạn nạn khan hiếm lương thực thực phẩm xảy ra liên miên trong những giai đoạn khác nhau ở những quốc gia có diện tích đất đai canh tác khổng lồ và giàu tài nguyên như Liên Xô, Trung Quốc, và điều khó có thể tưởng tượng đó cũng xảy ra ở cả một đất nước được xem là vựa lúa của thế giới như Việt Nam.

Mặt khác, khi cơ chế kế hoạch hóa tập trung ngăn cản các cá nhân quyền tự tìm kiếm thu nhập và sử dụng tài sản của mình cho những mục đích dù là riêng tư nhất, tất dẫn đến những tác động tiêu cực về mặt đạo đức, thái độ, lối sống và cách ứng xử của con người. Thay vì tự do và minh bạch sử dụng tài sản, sử dụng trí tuệ của mình để làm giàu chính đáng và cải thiện hoàn cảnh sống cho bản thân, thì người ta phải lén lút làm [ Ví dụ Nhiều gia đình trong thời kỳ bao cấp đã phải lén nuôi thêm mấy con gà, mấy con heo, trồng thêm một ít rau trên mảnh đất của chính gia đình mình, họ luôn đứng trước nguy cơ bị xử phạt, bị tịch thu sản phẩm ]. Kết quả là, để có thể làm được những việc chính đáng này, họ lại phải hối lộ cho những kẻ cai trị cấp thấp ở nơi họ sinh sống, để chúng làm lơ cho họ.

Nguy hiểm hơn, việc tập trung và kế hoạch hóa nền kinh tế của XHCN được áp dụng trong một thời gian dài, và được củng cố bằng những đòn trừng phạt bạo lực của bộ máy cai trị trung ương đối với những kẻ chống đối sự áp bức mà cơ chế áp đặt lên họ, đã dạy cho người ta chỉ biết phục tùng, dần dần dẫn tới con người mất khả năng tư duy độc lập và phản biện, khiến cho người ta sợ chịu trách nhiệm cá nhân, kích thích lối sống ỷ lại, dựa dẫm vào người khác; khiến cho người ta mất động lực vươn lên và thay vào đó là tư duy bình quân chủ nghĩa.

Sự trao quyền lực quá lớn vào tay một bộ phận người không có đủ năng lực và nhân tâm mà không đòi hỏi những người này giải trình trách nhiệm hay giải thích về sự hợp lý của hành động của họ, dù là thiện hay ác, cũng từ từ khiến cho xã hội người ta mất đi cảm giác phân biệt thiện – ác trong hành động, thay vào đó bất cứ việc gì người ta cũng có thể làm nhân danh cộng đồng hay sứ mệnh cao cả.

Quyền lực cho phép một bộ phận người được ban ân huệ hoặc tước đoạt những ưu ái cho những người khác trong xã hội mà không cần phải có những lý do chính đáng, không có những chuẩn mực hợp lý, không có những cân nhắc tới các nguyên tắc đạo đức, luân lý xã hội, đã dẫn đến hệ quả là nó kích thích người ta chạy theo lối sống xin xỏ, chạy chọt để hưởng đặc quyền đặc lợi, và được quyền ban ơn huệ cho người khác, v.v…

Khi những lời hứa về XHCN đứng trước nguy cơ phá sản hoàn toàn, những người lãnh đạo của chế độ toàn trị đã không thể chấp nhận sự kém cỏi, bất tài và mơ mộng của mình. Sự bất lực đó đã được che đậy bằng việc tăng cường những biện pháp đàn áp đối với dân chúng lên tới mức tối đa, hòng bóp nghẹt tất cả mọi những tiếng nói phản biện, những đầu óc đòi tự do. Điều này lại góp phần tạo ra một hệ thống cai trị và hệ thống công an, mật vụ, ngày một phình to, nguồn lực của toàn xã hội vốn đã ít ỏi, lại bị phân bổ vào những lĩnh vực không hiệu quả, và hậu quả tất yếu là nền kinh tế của quốc gia sẽ bị suy yếu, đời sống của dân chúng bị sút kém, và bất mãn trong xã hội ngày càng gia tăng.

Bi kich vì vậy sẽ trở thành nặng nề hơn khi người ta nhận ra rằng Đường Đến Tự Do mà người ta hứa hẹn, trên thực tế lại là Đại Lộ Dẫn Về Nô Lệ” [ Trang 133 ].

VÀ NHƯ VẬY, CHỦ NGHĨA XÃ HỘI MÃI MÃI KHÔNG BAO GIỜ CÓ THỂ HOÀN THÀNH ĐƯỢC NHỮNG LỜI HỨA HẸN VÔ TRÁCH NHIỆM CỦA NÓ, NHƯ NÓ ĐÃ LỪA DỐI HÀNG TRĂM TRIỆU CON NGƯỜI TRONG HƠN MỘT THẾ KỶ QUA.

Phần 1: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác giả: Từ Liên.

Phần 2: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek — Tóm Tắt. Tác Giả: Từ Liên.

Phần 4: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.

Tác Giả: Từ Liên.

Phần 2: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek — Tóm Tắt. Tác Giả: Từ Liên.

Không biết ngoài các chế độ độc tài cộng sản, thì có chế độ nào khác trên địa cầu này tin rằng phải giết hết những người giàu, những người giỏi đi [ Trí, Phú, Địa, Hào ] thì những người nghèo, ít học và thiệt thòi sẽ được hưởng sung sướng??? Tôi hồ nghi rằng trong thế giới sơ khai của các loài động vật chúng cũng không hành động như vậy.

Phần 1: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác giả: Từ Liên.

Phần 3: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.

Phần 4: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.

NHỮNG HỆ QUẢ XẢY RA NGÀY HÔM NAY TRONG CÁC XÃ HỘI ĐỘC TÀI LÀ CÓ PHẦN LỖI CỦA CHÍNH NGƯỜI DÂN Ở NHỮNG XỨ SỞ NÀY.

Trong phần tóm tắt trước, tôi đã tóm tắt những nhận xét của tác giả Hayek liên quan tới sự ra đời của loại hình chủ nghĩa độc tài toàn trị / cai trị tập thể, cũng như những đặc điểm của hoàn cảnh và bản chất chế độ này đã thúc đẩy những người xấu xa leo lên nắm được những vị trí quyền lực chủ chốt ra sao.

Trong phần này, tôi sẽ tiếp tục tóm tắt, và phân tích một số những lập luận chủ chốt của tác giả liên quan đến những nguyên nhân mà chế độ độc tài toàn trị vẫn có thể tồn tại trên thế giới này, ở những nơi có số lượng dân cư rất đáng kể. Chỉ một nhúm nhỏ chiếm khoảng 5% dân chúng, lại không phải là thành phần tinh hoa, sáng suốt, đã có khả năng biến cả một xã hội đông đúc, gồm nhiều thành phần khác nhau, thành một đàn cừu khổng lồ nằm dưới sự cai trị của chúng. Điều này y như những gì nhà viết kịch Ted Tally đã ngụ ý trong tác phẩm “Sự Im Lặng Của Bầy Cừu” [ The Silence of the Lambs ], đã được chuyển thể thành phim điện ảnh vào năm 1991.

Tuy nhiên, khác với nhiều học giả khác, vốn có chỉ tập trung vào đổ lỗi MỘT CHIỀU cho những kẻ tham vọng đã sử dụng mọi mưu mẹo và các biện pháp thiếu chính đáng để nhảy lên vũ đài chính trị nắm quyền, Hayek đã chỉ rằng, những đau khổ mà người dân của những xứ độc tài toàn trị đang phải chịu đựng CŨNG LÀ KẾT QUẢ CỦA CHÍNH NHỮNG MƠ MỘNG THIẾU CHÍNH ĐÁNG CỦA HỌ, VÀ SỰ IM LẶNG CỦA HỌ TRƯỚC SỰ PHÁT TRIỂN LIÊN TỤC CỦA NHỮNG MẦM MỐNG XẤU XA. Ông viết:

“Trong quá trình phát triển, khi nền văn minh bỗng làm một cú rẽ ngoặt bất ngờ, khi đáng lẽ phải là tiến bộ thì ta lại phát hiện thấy những mối đe dọa từ tất cả các hướng, dường như đang đưa ta trở về thời kì mông muội, thế là chúng ta sẵn sàng kết án tất cả mọi thứ, TRỪ CHÍNH CHÚNG TA”.

Chúng ta chẳng đã lao động hết mình với những lí tưởng trong sáng nhất đó sao? Để cải tạo thế giới, những con người thông thái nhất chẳng đã suy nghĩ nát óc đó sao? Chúng ta chẳng đã từng mơ ước và hi vọng có nhiều tự do hơn, nhiều công bằng hơn và sung túc hơn đó sao? Và nếu kết quả khác xa với mục tiêu – nếu thay cho tự do và thịnh vượng lại là cảnh nô lệ và bần hàn – thì đấy có phải là sự can thiệp của những lực lượng đen tối, làm hỏng các dự định của chúng ta, có phải là chúng ta đã trở thành nạn nhân của một thế lực độc ác nào đó, phải đánh bại nó thì mới mong trở lại được con đường dẫn tới hạnh phúc hay không?

Ai có lỗi? Dù câu trả lời có là gì đi chăng nữa, dù đấy có thể là tên tư sản độc ác, dù đấy có thể là bản tính xấu xa của một dân tộc nào đó, dù đấy có thể là sự ngu dốt của các thế hệ cha anh hay dù đấy là hệ thống xã hội vẫn chưa được lột xác hoàn toàn, dù chúng ta đã đấu tranh chống lại suốt nửa thế kỉ qua – thì tất cả chúng ta đều tin tưởng tuyệt đối một điều ( ít nhất là cho đến tận thời gian gần đây chúng ta vẫn tin như thế ): Các tư tưởng chính yếu, được công nhận rộng rãi trong thế hệ vừa qua và hiện vẫn được những người tử tế dùng làm kim chỉ nam trong tiến trình cải tạo xã hội, KHÔNG THỂ LÀ NHỮNG TƯ TƯỞNG SAI LẦM.

Chúng ta sẵn sàng chấp nhận mọi lời giải thích cho cuộc khủng hoảng hiện nay của nền văn minh của chúng ta trừ một nguyên nhân: CUỘC KHỦNG HOẢNG NÀY CHÍNH LÀ HẬU QUẢ CỦA MỘT SAI LẦM MANG TÍNH NGUYÊN TẮC, ĐẤY CHÍNH LÀ VIỆC THEO ĐUỔI MỘT VÀI LÝ TƯỞNG YÊU QUÝ CỦA CHÚNG TA ĐÃ ĐƯA ĐẾN NHỮNG KẾT QUẢ KHÁC XA NHỮNG ĐIỀU CHÚNG TA KỲ VỌNG. [ Đường Về Nô Lệ, Chương I ].

Điều này, là điều dường như đã được nhiều độc giả nhìn thấy ở những mức độ khác nhau trong những xứ độc tài toàn trị, Trung Quốc, Nga, Belarus, Venezuela, Cuba, Campuchia, Triều Tiên, và dĩ nhiên là Việt Nam.

Chân thành mà nói, không phải người dân của những xứ sở này đã không nhìn thấy những tấm gương phản chiếu những hệ quả đáng ghê tởm của những gì mà các lãnh đạo toàn trị này đã làm với dân chúng của mình, trong suốt một thế kỷ qua: Những cuộc diệt chủng không gớm tay của Stalin, của Mao Trạch Đông, của Đặng Tiểu Bình, đối với chính dân tộc của mình, trong đó có cả những thành phần hết sức tinh hoa, lỗi lạc, mà sự góp sức của họ có thể làm thay đổi hoàn toàn số phận của dân tộc, đối với chính đồng đội kề vai sát cánh của mình trong thời kỳ tiến hành cách mạng, đối với những dân tộc thiểu số yếu ớt, và đối với những dân tộc láng giềng “môi hở răng lạnh”…

Số liệu của một số nghiên cứu trên thế giới, trong đó có trường College Mount Holyoke [ https://www.mtholyoke.edu/acad/intrel/pol116/genocides.htm ], đưa ra, có thể khiến người ta giật mình. Chẳng hạn như, Riêng Trung Cộng, trong các giai đoạn 1958-1961; 1966-1969 [ ở Trung quốc ]; ở Tây Tạng [ 1949-1950 ]: Có khoảng từ 49,000,000-78,000,000 những người bị tra tấn dã man, bị bỏ tù cho tới chết, bị giết chết trong các cuộc thanh trừng, trong cuộc Đại Nhảy Vọt [ Great Leap Forward ], và trong Cách Mạng Văn Hóa [ Cultural Revolution ]. Hậu quả để lại cho cả tình trạng kinh tế lẫn tinh thần của người dân là hết sức khốc liệt, mà cho tới giờ này vẫn còn tiếp diễn.

Ở Liên Bang Xô Viết, [ USSR ], từ 1932-1939, có khoảng 23,000,000 người chết trong các cuộc thanh trừng cũng như chết vì nạn đói do thiếu hụt thực phẩm ở Ukraine.

Ở Đức, từ năm 1939-1945 có khoảng 12,000,000 dân thường cũng như người Do Thái và các dân tộc khác ở Đức bị bắt giam và chết trong các trại tập trung của Đức Quốc Xã.

Ở Miền Bắc Việt Nam, mặc dù các lãnh tụ Đảng Cộng Sản đã nhìn thấy phần nào hệ quả tàn nhẫn của của cải cách ruộng đất ở Trung Cộng, và những chương trình cải cách tương tự ở Liên Xô, nhưng họ vẫn bắt tay với các cố vấn Trung Cộng để tiến hành với dân tộc mình. Chỉ riêng ba năm cải cách ruộng đất ( 1953-1955 ), các số liệu khác nhau đã dẫn từ dưới một chục ngàn tới vài chục ngàn những người bị quy là địa chủ bị xử tử. Trong khi đó, theo bài viết “Phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất, Tạp chí Xưa&Nay, Hà Nội, số 297, 2007, trang 10-15”, “tổng số người bị quy là địa chủ trong Cải cách ruộng đất đã được thống kê là 172,008 người; trong đó số người bị quy sai là 123,266 người, chiếm tỷ lệ 71.66%”.

Không biết dựa trên những cơ sở nào mà những người tổ chức cải cách ruộng đất đã đề xuất rằng mỗi địa phương phải tìm ra một chỉ tiêu là 5% địa chủ để kết án, quy tội, chẳng khác gì họ tìm cách diệt chủng người dân của mình bằng những biện pháp nghe có vẻ hợp lý đối với một bộ phận dân chúng.

Không biết ngoài các chế độ độc tài cộng sản, thì có chế độ nào khác trên địa cầu này tin rằng phải giết hết những người giàu, những người giỏi đi [ Trí, Phú, Địa, Hào ] thì những người nghèo, ít học và thiệt thòi sẽ được hưởng sung sướng??? Tôi hồ nghi rằng trong thế giới sơ khai của các loài động vật chúng cũng không hành động như vậy.

Mà đó là mới chỉ riêng số địa chủ bị quy sai, chưa kể những tù nhân chính trị bị ép vào các tội chống lại Đảng Cộng Sản, các trí thức thích phát minh, sáng kiến, các văn nghệ sĩ yêu tự do, các tiểu thương, người giàu có từ việc làm ăn chân chính, và thậm chí đã dành nhiều sự giúp đỡ to lớn cho chính quyền Việt Cộng.

Tàn nhẫn hơn, đằng sau họ là còn những người vợ, những ông bố, bà mẹ, những đứa con, các bằng hữu, thân hữu, và kể cả cộng đồng của họ, cũng phải gánh chịu hậu quả của cuộc cải cách này, nhưng hầu như đã không được tính tới. Thật khó mà hình dung “phần dưới của tảng băng”, tức con số tổng cộng những nạn nhân trực tiếp và gián tiếp của các công cuộc cải cách kiểu như thế này đã gây ra. Tất cả những gì chúng ta có thể thấy cho tới giờ phút này vẫn chỉ là “phần nổi của tảng băng”.

Người dân của những xứ này họ thấy hết những hậu quả thảm khốc và tang thương của các cuộc cải cách này đó chứ, thế nhưng họ vẫn đồng tình với chính quyền và tiếp tục tin rằng, CHÍNH QUYỀN DO CHÚNG TÔI ỦNG HỘ THÌ KHÔNG BAO GIỜ LẠI CÓ THỂ SAI ĐƯỢC.

Và chúng ta thấy rằng mới đây thôi, trong các cuộc chặn bắt dân chúng ra đường trong thời kỳ phong tỏa, các phường đã “ra chỉ tiêu” số người dân phải bị chặn bắt để nộp phạt trong ngày cho lực lượng dân phòng, cảnh sát để họ thi hành chặn bắt người dân. 70 năm đã qua rồi mà “chỉ tiêu”“kế hoạch” là điều chưa bao giờ bị xóa bỏ trong những đầu óc xơ cứng của tà quyền cộng sản.

Ngoạn mục hơn, trong cải cách ruộng đất, người dân của cái xứ độc tài này còn được tham gia vào một vở bi kịch bỉ ổi nhất do Đảng Cộng Sản đạo diễn, vở kịch có tên “Tố cáo những thành phần phản động, đối lập với Đảng”.

Trong vở bi kịch vĩ đại và đẫm máu này, một bộ phận to lớn dân ở miền Bắc đã đồng ý để cho một nhúm người cộng sản từ rừng rú tiến xuống, chỉ biết vài chữ bẻ đôi, và mấy thứ học thuyết sáo rỗng, đạp lên vài ngàn năm văn hóa văn vật của họ một cách không thương tiếc. Mấy ngàn năm được học về Lạc Long Quân và Âu Cơ, học về “Bầu ơi thương lấy bí cùng”, học về “Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”, học rằng “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”, học về Tam tòng tứ đức, Học về đạo cha con, vợ chồng, về tình huynh đệ, trong một phút chốc, bị đạp nát vụn vỡ. Giờ thì con tố cha, mẹ, vợ tố chồng, bạn bè tố nhau, để tranh công trước đảng. Bao nhiêu luân thường đạo lý của tổ tiên đã gầy dựng, gìn giữ, gắng sức truyền lại cho con cháu mình trong cả ngàn năm, phút chốc tan theo mây khói.

Không biết có nỗi đau nào trong tất cả những nỗi đau của những dân tộc bị cai trị bởi bè lũ độc tài lại có thể gây tổn thương hơn, đau đớn hơn những bi kịch này không? Không biết có sự đổ vỡ nào trong nền văn hóa của bất kỳ một dân tộc nào lại có thể để lại những vết thương sâu sắc và khó lành lặn như những vết thương mà sự sụp đổ của nền luân thường đạo lý gây ra không? Không biết có sự thiệt hại nào đối với bất kỳ quốc gia, dân tộc nào lại có thể lớn hơn sự thiệt hại đến từ việc diệt chủng một bộ phận tinh hoa, có khả năng mở mang đầu óc cho phần lớn dân chúng nữa hay không?

Không biết có ai trong số những người đang đọc bài viết này lại muốn đến đời của con cháu mình, để giữ được sinh mạng nô lệ của mình trong một hoàn cảnh nào đó, bọn con cháu bị tẩy não và nhồi sọ đó sẽ sẵn sàng đối xử với chúng ta theo cái cách đã diễn ra trong thời cải cách ruộng đất không?

Cộng sản không phải là con người, mà có lẽ cũng chẳng được là con vật bình thường. Chẳng phải người ta thường nói, “Hổ dữ không ăn thịt con đó sao”?

Có cái giống loài gì mà không thương yêu con cái và gia đình mình, nó lại có thể thương yêu con cái của kẻ khác, những giống loài khác được chăng?

Không có luân thường đạo lý, liệu đời sống của con người có hơn đời sống của các loài động vật thấp kém nhất không?

Người dân của những xứ này có nhìn thấy bài học lịch sử bi tráng và đẫm lệ này không ?

Họ có đấy, nhưng họ vẫn nhắm mắt làm ngơ.

Mùa dịch bệnh năm 2021 này, tà quyền cộng sản vẫn ra chiến dịch tố giác người bị nhiễm bệnh mà không khai báo đó thôi, bất chấp người đó là ai đi chăng nữa? Và nó vẫn thu lại kết quả đấy thôi. Người ta vẫn hoan hỉ vì tố cáo được nhau.

Để đưa mình lên cao, người ta không cần phải nỗ lực và lao động, người ta nhất thiết phải dùng biện pháp hạ người khác xuống, dù là những biện pháp đê tiện nhất.

Sau năm 1975, sau khi hai miền bị thống nhất làm một, người dân của cái xứ sở này, người ta đã chứng kiến những cuộc bắt bớ, thanh trừng, những cuộc cải tạo trên quy mô lớn để “tẩy não” những người đã sống nhiều năm dưới chế độ tư bản, tự do ở Miền Nam. Hệ quả của những biện pháp tàn nhẫn, máy móc, và vô cảm này là hàng triệu con người đã chấp nhận đối mặt với cái chết để bỏ xứ sở ra đi. Cuộc tháo chạy khỏi chế độ cộng sản ở Miền Nam cũng đưa lại nhiều kết quả bi thương và thảm khốc cho đến giờ vẫn chưa thể tổng kết lại được, nhưng ít nhất, người Miền Nam VẪN CAN ĐẢM HƠN người Bắc Cộng rất nhiều, vì họ đã không chấp nhận việc phải chà đạp lên luân thường đạo lý của họ để mà giữ lại cái sinh mệnh nhỏ nhoi của mình.

Dân Việt Nam có thấy điều đó không? Họ thấy rõ như ban ngày.

Nhưng sự mơ mộng của họ đối với những viễn tưởng mà tà quyền cộng sản vẽ ra cho họ như “cơm no áo ấm, thịnh vượng, hùng cường, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, chấn động năm châu, vang dội địa cầu”, là quá có sức hấp dẫn. Họ tin rằng họ chẳng cần phải làm gì cả, chỉ phải trao toàn bộ tài sản của họ cho nhà nước quản lí. Họ tin rằng họ chỉ phải trao toàn bộ quyền tự do của họ vào tay tà quyền độc tài, và chấp nhận để bộ máy của tà quyền giải quyết tất cả mọi việc thì họ sẽ được ăn ngon, ngủ yên.

Họ tin rằng chẳng phải lao động chăm chỉ và chẳng cần nuôi dưỡng lòng khát khao tìm kiếm tri thức, họ tin rằng chẳng phải nhọc óc suy nghĩ hay phải chấp nhận những khó khăn thách thức, thậm chí phải đổ máu, thì mới có thể kiến tạo nên con đường dẫn tới thịnh vượng,

Họ tin rằng chẳng phải học hành, chẳng phải đọc sách, chẳng phải dạy dỗ con cái về tình yêu đối với sự thật, chẳng phải trải qua những kinh nghiệm đau đớn, chẳng phải vun bồi lòng tự trọng, thì con người vẫn có thể trở nên văn minh và nhân bản được …

Kết quả là, những gì đồi bại nhất và kém cỏi nhất mà xã hội ngày hôm nay bộc lộ ra chính là hệ quả của những giấc mơ địa đàng của một bộ phận đông đảo dân chúng, [ Giấc mơ địa đàng là từ đã được Hayek sử dụng làm tựa đề chương số II của Đường Về Nô Lệ ], không phải chỉ là hệ quả của tầng lớp tà quyền thống trị họ. Điều này nhiều lần được Hayek nhận xét trong suốt tác phẩm của ông, là, NÓ THẬT KHÓ ĐỂ CHẤP NHẬN VỚI BẤT KỲ AI, VÌ PHẦN LỚN CHÚNG TA KHÔNG CHỊU ĐỰNG ĐƯỢC VIỆC CHÍNH MÌNH LÀ NGƯỜI CÓ LỖI HAY LÀ NGƯỜI THẤT BẠI.

Hậu quả là vào thập niên XX của thế kỷ XXI, người dân nhập cư từ miền đất của những người chiến thắng Miền Nam, chứ không phải dân Miền Nam, hay là người dân Sài Gòn, lại tiếp tục phải tháo chạy về quê của họ, để trốn chạy những hậu quả mà chế độ độc tài cộng sản đã gây ra cho họ ở Miền Nam trong thời kỳ hiện tại. Kế hoạch biến Sài Gòn từ một Hòn Ngọc Viễn Đông thành một trại tập trung cải tạo của cộng sản hình như đã thu được thành quả.

Nhiều người nói rằng, Miền Nam thua thì hãy chịu thua đi, để cho bên thắng cuộc người ta cai trị. Bao nhiêu năm rồi tại sao không chấp nhận mình là người thua cuộc???

Dạ vâng, Sài Gòn thua, Miền Nam thua, điều này đâu thể chối cãi nữa.

Nhưng xin quý vị cũng đừng quên rằng các nhà nước Ai Cập, Lưỡng Hà, Hy Lạp, La Mã hết sức văn minh và rực rỡ trong các nền văn minh cổ đại cũng đã sụp đổ vì các cuộc xâm lược của BỌN MAN TỘC, bởi những dân tộc KÉM VĂN MINH, GIÀU BẠO LỰC. Và sự tàn phá của những bộ lạc man tộc này đối với lịch sử Châu Âu là khủng khiếp và tàn nhẫn đến nỗi cả 10 thế kỷ sau, sau bao gian nan và nỗ lực, họ mới có thể gầy dựng để phục hưng trở lại [ Từ thế kỷ V đến thế kỷ XV ].

Xa hơn nữa, người dân Việt Nam có nhìn thấy, đọc thấy trên các phương tiện truyền thông, Internet về những gì xảy ra ở những nhà nước toàn trị trên khắp thế giới này không?

Ở Liên Xô, ở Trung Quốc, ở Iraq, ở Campuchia, ở Cuba, ở Bắc Triều Tiên…

Họ đã thấy Liên Xô hùng cường, thành trì vững chắc của CNCS sụp đổ, hàng ngàn các dân tộc bước ra từ đó, đã cảm thấy chói mắt trước ánh sáng mặt trời của thế giới tự do, mọi người đã nhìn thấy người Đông Đức mạo hiểm mạng sống bỏ chạy qua Tây Đức, bức tường Berlin sụp đổ, mọi người đã thấy sự thịnh vượng của Nam Hàn đối lập với sự nghèo khổ, lạc hậu, tù túng của Bắc Triều Tiên. Mọi người cũng được nhìn thấy cảnh thu hoạch nội tạng của những người tập Pháp Luân Công, những cuộc đàn áp đối với người Duy Ngô Nhĩ, những cuộc xâm chiếm đất đai của người Tây Tạng, những công cuộc hủy diệt văn hóa đối với người Nội Mông, và gần hơn, những cuộc đàn áp tự do đẫm máu ở Hong Kong.

Nhưng mọi người vẫn nuôi hy vọng rằng: Ồ, những chuyện đó xảy ra ở đâu đó chứ không phải là ở xứ của mình, không phải là xảy ra đối với mình, và con cháu mình.

Thậm chí ngay cả khi có nhiều bằng chứng khoa học cho thấy rằng, người Việt Nam đang phải ăn nhiều thực phẩm có dư lượng chất độc cao, và tỷ lệ bệnh tật liên quan tới đường tiêu hóa [ Ung thư dạ dày, ung thư gan, ung thư trực tràng ] và đường thở của người Việt Nam [ ung thư phổi, ung thư khí quản ] cao lên một cách đáng báo động, thì tà quyền Việt Cộng vẫn mở rộng biên giới cho người láng giềng bốn tốt và mười sáu chữ vàng mang từ thực phẩm, hàng hóa, tới cả các loại thuốc trị bệnh vào để tàn sát dân mình.

Và nhiều người Việt Nam vẫn hân hoan đón nhận, cảm ơn Đảng, cảm ơn Nhà Nước, cảm ơn Trung Cộng. Phóng viên Lã Nghĩa Hiếu viết bài cho báo Thanh Niên bữa ngày 01/08/2021, đề rằng “Hàng vạn người Quảng Ninh vui mừng được tiêm vắc xin Sinopharm”, sau khi bài báo bị phản đối dữ dội, và đánh một ( 1 ) sao, thì anh ta bỏ đi chữ vui mừng, sửa lại thành “Hàng vạn người dân tại Quảng Ninh, đặc biệt là cư dân biên giới đã được tiêm vắc xin phòng Covid-19, loại Vero Cell của hãng Sinopharm”.

Người dân Việt Nam có nhìn thấy các cuộc đấu tranh của người dân ở các xứ sở độc tài không? Từ Nga, tới Beralus, Venezuela, Hong Kong, mới đây là Myanmar, Cuba, Thái Lan…

Họ thấy chứ, nhưng họ nói: Nhìn xem, mấy người đó có làm được gì đâu? Họ đều thất bại và bị trấn áp hết rồi?

Có ai tự hỏi rằng, sự thất bại của những con người yêu tự do đó, có phần góp sức to lớn của những người ĐỜI ĐỜI MUỐN LÀM NÔ LỆ?

Coi mấy cái videos mà các dư luận viên của tà quyền cộng sản làm trên YouTube về Cuba vào giữa Tháng Bảy, 2021, tôi đọc thấy hàng chục ngàn người Việt Nam đã vào đó hô hào thề thốt rằng họ sẵn sàng đổ máu để giúp Cuba giữ lại cái chế độ thối nát của mình. Họ ra vẻ là họ không sợ đổ máu, không sợ chiến tranh. Hàng ngàn người ca ngợi Trung Quốc là người anh cả vĩ đại, sắp vượt Âu, Mỹ và thống trị toàn thế giới. Nghe có vẻ như người Việt Nam hiểu biết nhiều lắm, dũng cảm anh hùng lắm.

Phải chi nhiêu đó con người biết nói như vậy trên cái xứ sở Việt Cộng này thì có lẽ tình hình đã khác.

Phải chi nhiêu đó con người ráng học hành cho đàng hoàng, hiểu biết cho tường tận, dạy dỗ con cái cho tử tế, thì cái xứ sở này đã xinh đẹp và đáng sống biết bao nhiêu.

Như các nhà lãnh đạo độc tài của họ, họ chỉ giỏi chém gió mấy chuyện xảy ra ở xứ người đã được định hướng bởi bọn dư luận viên ăn lương cộng sản. Họ không nhìn sâu vào để thấy số phận thảm khốc của những dân tộc đó, cũng chính là số phận của con cháu họ trong tương lai: Bị tước mất văn hóa, lịch sử, quyền làm người, bị thu hoạch nội tạng, bị tẩy não, phải sống đời sống như những con súc vật, phải bới rác ngoài thùng rác của quan chức cộng sản.

Số phận của mỗi dân tộc còn là lựa chọn của mỗi người dân ở xứ đó nữa …

Thật khó để không đồng ý với ông tác giả Hayek rằng, chừng nào người dân của các xứ sở độc tài vẫn chưa thôi chìm đắm trong những giấc mơ địa đàng, vẫn chưa thôi bám vào những lí do này, lí do khác để biện minh cho hiện tình của dân tộc mình, thì ngày đó, chế độ tà quyền, độc tài vẫn còn yên tâm về vị trí thống trị của chúng.

Các quốc gia Châu Âu phát triển, Nhật Bản, Hàn quốc hưng thịnh, chẳng phải vì những lãnh đạo của họ đã luôn phải xin lỗi dân chúng và nhận trách nhiệm về mình trước những chính sách sai lầm của họ đó sao?

Không lẽ người Việt Nam lại giàu tự trọng hơn những người đó, hơn những cái dân tộc đó, để không thể nhận phần trách nhiệm của mình đối với số phận của mình và con cháu mình sao?

Hồi Tháng Năm, 2017, ông Bộ Trưởng Mai Tiến Dũng, người phát ngôn của chính phủ Việt Cộng, đã nói trong buổi họp về báo về vụ việc Đồng Tâm, “Nếu chúng ta sai, chúng ta nhận lỗi trước dân. Nếu dân sai thì dân phải chịu trách nhiệm trước pháp luật”. Câu nói cho thấy đảng của ông ta có quyền lực vượt lên mọi pháp luật, mọi hiến pháp, mọi Hiến Chương Nhân Quyền.

Liệu có ai nghe những câu phát biểu như thế này mà lại không chạnh lòng, mà không có cảm giác lo lắng cho số phận của các thế hệ con cháu chúng ta trong tương lai chăng?

Phần 1: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác giả: Từ Liên.

Phần 3: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.

Phần 4: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.

Tác giả: Từ Liên.

Phần 1: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác giả: Từ Liên.

Phần 2: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek — Tóm Tắt. Tác Giả: Từ Liên.

Phần 3: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.

Phần 4: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.

Có những người sau khi đọc xong bài viết này có thể sẽ ước rằng: Ước chi tôi biết cuốn sách sớm hơn, ước chi tôi được học và đọc về nó sớm hơn! Nếu được như vậy, biết đâu tôi sẽ không chọn đi trên một con đường mà cái đích đến là biến tôi thành nô lệ, biến con, cháu tôi thành nô lệ, và biến cả dân tộc tôi thành nô lệ.

Đường Về Nô Lệ, hay chính xác tên tiếng Anh dịch ra là “Con đường đến với chế độ nông nô” [ Là chế độ được xác lập ở Châu Âu trong Thời Kỳ Trung Cổ, những nô lệ của thời kỳ cổ đại được chuyển thân phận thành tầng lớp nông nô. Họ có một phần tự do thân thể, nhưng không có quyền sở hữu đất đai và những công cụ lao động quan trọng, họ làm việc trên đất của chủ nô, và bị nhiều tầng bóc lột cũng không thua gì nô lệ, phải trả tô, thuế, làm sưu, lao dịch cho chủ nô dưới nhiều hình thức khác nhau. Họ không có quyền học hành hoặc quyền được tham dự vào các sự kiện quan trọng của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội ].

Cuốn sách được viết vào khoảng thời gian những năm giữa cuộc chiến tranh thế giới thứ hai ( 1940-1943 ) bởi triết gia và kinh tế gia người Anh gốc Áo Friedrich Von Hayek, người từng được nhận giải Nobel Kinh tế năm 1974. Nó được xuất bản lần đầu vào năm 1944, thời điểm chủ nghĩa phát xít đang trên đà suy yếu không thể cứu vãn, để rồi khi chủ nghĩa phát xít sụp đổ, nó ngay lập tức được kế nhiệm bằng sự bạo tàn không kém của chủ nghĩa xã hội trên một phần lớn của Châu Âu và Châu Á. Trong lịch sử tồn tại hơn 100 năm của mình cho tới nay, chủ nghĩa xã hội đã gây ra cái chết cho ít nhất là trên một trăm triệu người, thuộc nhiều dân tộc từ Đông qua Tây, lớn hơn bất kỳ cuộc chiến tranh nào trên thế giới này từ cổ chí kim có thể gây ra, lớn hơn bất cứ chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc hay chế độ diệt chủng nào có thể làm với nhân loại. Cho tới thời hiện tại, nó có lẽ vẫn tiếp tục là một cỗ máy giết người [ nhân danh những mục tiêu cao cả ] vô cảm và tàn nhẫn nhất mà con người có thể phát minh ra [ diệt chủng có tập trung và có mục đích, về cả thể xác lẫn tinh thần con người ].

Mặt khác, sự tồn tại dai dẳng của nó được lý giải bởi sự gộp lại của rất nhiều nguyên nhân, mà phần lớn những nguyên nhân quan trọng nhất đã được tác giả Hayek chỉ ra và phân tích ngay từ thời điểm khi thứ chủ nghĩa này mới chỉ là mầm mống yếu ớt ở Việt Nam. Là một người có kinh nghiệm sống phong phú ở một trong những thời kỳ khốc liệt nhất của lịch sử Châu Âu, được quan sát và tham dự vào những biến cố lớn của Châu Âu, được theo dõi và chứng kiến sự vận hành và phát triển của cả hai phong trào XHCN và chủ nghĩa phát xít, tác giả đã có những đúc kết xác đáng và sắc bén tới độ, gần 80 năm sau khi cuốn sách ra đời, nhiều độc giả vẫn có lẽ phải trầm trồ thán phục trước những quan sát tinh tế, những lý giải sâu sắc, những dự đoán chính xác của tác giả.

Đường Về Nô Lệ được coi là một cuốn sách kén độc giả, tuy vậy, tính cho tới nay, hơn hai triệu bản in chính thức đã được bán ra trên khắp trên thế giới, các bản in lậu và những bản in điện tử chưa thể thống kê.

Ở Việt Nam, cuốn sách này đã được dịch giả Phạm Nguyên Trường dịch, NXB Tri Thức phát hành năm 2009 với một số lượng bản hạn chế. Tuy nhiên, sau đó không bao lâu, cuốn sách này âm thầm biến mất ở thị trường Việt Nam, và cùng với cuốn Trại Súc vật, những người liên quan tới việc xuất bản chúng cũng đã bị kỷ luật và khép vào một trong những tội nghiêm trọng là tội phát hành các tài liệu tuyên truyền “chống Đảng Cộng Sản”.

Luận điểm chủ yếu của tác giả trong cuốn sách được coi là “Tuyên ngôn của chủ nghĩa tự do cá nhân” này, tập trung vào một số những vấn đề sau:

  1. Sự từ bỏ chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do cổ điển, TẤT YẾU sẽ dẫn đến tới sự tước đoạt tự do, sự hình thành một xã hội áp bức, sự bạo ngược của nền độc tài và sự nô dịch cá nhân.
  2. Trong hoàn cảnh nào chủ nghĩa độc tài toàn trị có thể soán ngôi chủ nghĩa tự do?
  3. Tại sao trong nền độc tài toàn trị, những kẻ xấu xa nhất lại là những kẻ dễ đạt được những vị trí cao trong bộ máy lãnh đạo?
  4. Chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa xã hội ĐỀU CÓ CHUNG GỐC RỄ là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung và sự tăng cường quyền lực nhà nước lên mọi cá nhân.
  5. Chủ nghĩa xã hội đã và vẫn có thể tồn tại dai dẳng vì trong học thuyết của nó có chứa rất nhiều những liều “thuốc phiện” phù hợp với nhiều người, từ bình dân tới những trí thức, và những kẻ cơ hội, tham vọng.

Vì cuốn sách được viết theo phong cách kinh điển và có nhiều chương bàn đến những vấn đề lý luận rất sâu, tôi không có tham vọng tóm tắt cho các độc giả nội dung hoàn hảo và toàn diện của cuốn sách. Trong khả năng của mình, tôi xin phép chia nhỏ nội dung cuốn sách thành một số phần, để tóm lược lại một số những ý chính, hy vọng các độc giả có thể hiểu được phần nào đó những lập luận mà tác giả truyền tải trong tác phẩm quan trọng này. Những điều tôi tóm tắt sẽ tập trung vào những điểm có liên quan trực tiếp tới hiện thực tình hình của Việt Nam, là những sự thật thấm thía, sâu sắc, đau đớn, mà có thể nhiều người Việt Nam hiện nay có thể cảm nhận được khá rõ.

Mục đích xa của tôi là khuyến khích nhiều người hơn nữa tìm đọc các tác phẩm kinh điển mà có lý giải những vấn đề liên quan trực tiếp tới số phận của dân tộc mình. Chúng ta đã lạc hậu hơn nhiều những dân tộc khác trên thế giới, có lẽ rằng có phần lỗi của chúng ta là đã khinh thường, đã bỏ qua, đã tham khảo quá ít những kinh nghiệm được rút tỉa ra từ lịch sử phong phú của toàn bộ những dân tộc trên thế giới này để lại cho chúng ta.

Con đường đã đi qua chúng ta không thể rút ngắn lại, nhưng tôi luôn tin rằng chúng ta có thể góp phần để các thế hệ con cháu của chúng ta, những thế hệ không may mắn đã sanh ra và lớn lên giữa chặng đường Nô lệ này, có thể được rẽ ngang qua một con đường sáng sủa và dẫn tới tương lai thịnh vượng hơn.

Tôi rất biết ơn những độc giả dành thời gian đọc bản tóm tắt thô thiển này, và tôi càng kính trọng và biết ơn hơn nữa đối với những độc giả nhờ vào những giới thiệu ít ỏi của tôi, sẽ tìm đọc toàn văn của tác phẩm, cũng như chia sẻ những hiểu biết của mình cho những người quan tâm đến hành trình tìm kiếm tự do, không chỉ cho bản thân họ, mà còn cho con cháu họ, những người thân yêu của họ, và cả dân tộc của họ.

Cũng vì lý do cuốn sách có nhiều phần đi vào chiều sâu của các lý thuyết kinh tế-chính trị-xã hội, nên tôi sẽ không giới thiệu cuốn sách này theo thứ tự các chương mục. Tôi sẽ trình bày những phần có liên hệ trực tiếp với hoàn cảnh hiện tại của Việt Nam trước, rồi sẽ quay lại để giới thiệu những nhận định của tác giả đã đưa ra trong những chương đầu tiên.

Tôi sẽ bắt đầu việc lựa chọn thứ tự các chương mà tôi sẽ giới thiệu chính bằng câu hỏi mà tôi được nghe nhiều người Việt Nam thắc mắc và bàn luận cùng nhau nhiều nhất: Tại sao tuyệt đại đa số những quan chức trong bộ máy cầm quyền của các chính quyền cộng sản lại là những kẻ tham ô, tham nhũng, hủ bại, ích kỷ, tham lam, thiếu sáng suốt, phi logic, vô cảm và tàn nhẫn với những người dân của họ như vậy?

Câu hỏi này đã dẫn tôi tới chương X của cuốn sách: VÌ SAO NHỮNG KẺ XẤU XA NHẤT LẠI CÓ KHẢ NĂNG LEO LÊN ĐỊA VỊ CAO NHẤT? Ở chương này, tác giả sẽ đưa ra những gợi ý sắc sảo để chúng ta thấy rằng: “Có đầy đủ lí do để tin rằng, những đặc điểm xấu xa nhất của các hệ thống toàn trị hiện nay không phải là sản phẩm phụ ngẫu nhiên, mà là những hiện tượng mà chế độ toàn trị trước sau gì cũng sẽ tạo ra”.

Vì tác giả viết điều này khi ông đang là công dân của một nước đã có truyền thống dân chủ và nền độc lập lâu đời, nên ông không so sánh CNXH với chủ nghĩa phong kiến như ở Việt Nam, Liên Xô cũ hay Trung Quốc, mà ông sẽ dùng chính chế độ dân chủ ở nước mình để làm tấm gương đối chiếu với chế độ độc tài toàn trị.

Ở đầu chương X, tác giả Hayek đưa ra một ví dụ để dẫn giải tại sao những người “xấu” lại là một lựa chọn thích hợp để làm lãnh đạo trong các thể chế độc tài toàn trị:

“Khi một chính khách dân chủ quyết định lập kế hoạch cho toàn bộ các hoạt động kinh tế, thì chẳng mấy chốc ông ta sẽ phải đối mặt với một trong hai lựa họn: Chấp nhận chế độ độc tài hay từ bỏ các dự định của mình, còn nhà lãnh đạo toàn trị thì phải giẫm lên đạo đức truyền thống nếu không muốn thất bại. ĐÓ CHÍNH LÀ LÝ DO MÀ VÌ SAO TRONG CÁC XÃ HỘI CÓ KHUYNH HƯỚNG TOÀN TRỊ, NHỮNG KẺ VÔ LIÊM SỈ THƯỜNG DỄ THÀNH CÔNG HƠN. Không hiểu điều đó là không hiểu được khoảng cách mênh mông, có thể nói là một trời một vực, giữa chế độ toàn trị và chế độ tự do, không hiểu điều đó là không hiểu được rằng đạo đức tập thể không thể đội trời chung với những giá trị nền tảng của nghĩa cá nhân của nền văn minh Phương Tây” [ Trích, Đường về Nô lệ, chương X ].

VẬY BẰNG CÁCH NÀO MÀ CÁC NHÀ ĐỘC TÀI TOÀN TRỊ ĐÃ CÓ THỂ SOÁN NGÔI NHỮNG NHÀ DÂN CHỦ-TỰ DO?

Những vận động tự nhiên của bất kỳ một xã hội nào cũng có khuynh hướng làm nảy sinh những mâu thuẫn ở những mức độ khác nhau trong lòng xã hội đó. Những mâu thuẫn này, có đôi khi dẫn tới sự chia rẽ và phân hóa dân chúng trong một xã hội thành những tầng lớp dân chúng với những hiểu biết, quan điểm và nhu cầu khác nhau. Khi khuynh hướng này lớn dần lên, sẽ từ từ xuất hiện những người cầm đầu đại diện cho mỗi nhóm quan điểm. Những người này sẽ tập hợp xung quanh mình một nhóm nhỏ có cùng niềm tin để đề xuất những quan điểm, đường lối, cương lĩnh, tiêu chuẩn, và sau đó chính thức bước vào cuộc chạy đua với các nhóm chính trị khác để giành quyền thống trị.

Cũng như những chế độ cai trị khác, khi những mầm mống của một chế độ cai trị tập thể ( XHCN ) mới chỉ manh nha xuất hiện, những kẻ độc tài dẫn đầu sẽ nhìn thấy tầm quan trọng của việc phải xác lập một số những tiêu chuẩn cơ bản của hình thức cai trị đó, để có thể thống nhất trong việc dạy dỗ dân chúng và tuyên truyền cho tính ưu việt của mình về sau này. Trước tiên là về mặt đạo đức. Những tông đồ của học thuyết XHCN đã đưa ra một danh sách dài những giá trị đạo đức mà những người tuyên thệ làm đảng viên phải thề thốt noi theo. Những giá trị này gộp tất cả những tinh hoa đạo đức từ cổ chí kim trên khắp thế giới này gộp lại, từ đạo đức của con người cá nhân đến đạo đức của con người xã hội, nó yêu cầu người đứng vào hàng ngũ tinh hoa của CNXH phải là các thánh nhân như Khổng Tử, Đức Phật, Chúa Jesus, Triết gia Plato…, những người mà sức thu hút đối với một bộ phận đông đảo dân chúng là đương nhiên và không cần nhọc công chứng minh nữa.

“Tuy nhiên, trong thực tế, quan điểm đạo đức ngự trị này sẽ phụ thuộc vào những phẩm chất có thể dẫn các cá nhân tới chỗ thành công trong hệ thống toàn trị hay hệ thống cai trị tập thể, và phụ thuộc một phần vào đòi hỏi của bộ máy toàn trị”.

Thông thường thì những yêu cầu về phẩm chất [ theo quan điểm của của GS Hayek là yêu cầu về phẩm chất của bộ máy toàn trị trên thực tế, vào thời điểm cụ thể ] này sẽ được lộ ra bởi những xáo trộn xã hội vào “đêm trước” của những cuộc cách mạng XHCN. Đó là lúc toàn dân cảm thấy bất mãn với chính quyền hiện hành [ Tác giả chỉ đề cập tới tình hình thực tế ở Phương Tây ], người dân cảm thấy bực bội trước những phản ứng chậm chạp của chính quyền, mà do những thủ tục rắc rối của nền dân chủ gây nên [ ví dụ như đòi hỏi phải thông qua bỏ phiếu, giải trình, tranh luận, mà những việc này thì tốn thời gian, trong khi những hoàn cảnh ngoài kia của dân chúng là những đòi hỏi cấp bách ].

Vào những lúc như thế này, người dân thường dễ cảm thấy mến mộ và dễ bị lôi cuốn bởi các chính khách hoặc đảng phái tỏ ra mạnh mẽ, sẵn sàng hành động vì người dân, những người có khả năng tạo cho người dân một cái cảm giác giả tạo nhưng vô cùng hấp dẫn rằng ông ta / đảng của ông ta sẽ thực hiện được ngay lập tức những điều mà người dân mong đợi.

“Thế là một Đảng kiểu mới, được tổ chức theo lối nhà binh, sẽ được đám dân cuồng nộ, thiếu kiên nhẫn, mơ mộng, nhưng lại thiếu lý tính và thiếu tầm nhìn xa, đưa lên vũ đài chính trị”.

Sau khi chiếm được quyền lực chính trị rồi, những tổ chức này sẽ tìm mọi cách quản lí đời sống riêng tư của tất cả các thành viên của nó. Để chiếm được thứ quyền lực không hạn chế thì nó phải biết tổ chức bộ máy của nó chặt chẽ từ trung ương tới những địa phương nhỏ nhất. Nó không cần dùng đến những lá phiếu của người dân thông qua bầu cử mà nó phải có khả năng tập hợp xung quanh những người lãnh đạo tối cao của nó một bè nhóm những kẻ biết phục tùng cái kỷ luật toàn trị mà nó sẽ dùng vũ lực áp đặt lên toàn bộ nhân dân.

“MÀ ĐỂ LÀM ĐƯỢC ĐIỀU NÀY, CHỈ CÓ NHỮNG KẺ TÀN NHẪN NHẤT, NHỮNG KẺ SẴN SÀNG BƯỚC QUA MỌI RÀO CẢN VỀ ĐẠO ĐỨC MỚI CÓ THỂ THỰC HIỆN ĐƯỢC” [ Những người sáng suốt, thông thái, có lí trí, tình cảm, đạo đức nhân văn, có trách nhiệm, có năng lực tự thân, thường sẽ không chọn đứng trong hàng ngũ những người phục tùng vũ lực, sức mạnh, hoặc chịu làm nô lệ cho những lời hứa vật chất phù phiếm, những mục tiêu hảo huyền, họ cũng thường không thích thống trị ai và cũng không thích ai thống trị họ. Kết quả là “những người này thường không có tính tàn nhẫn cần thiết để thực thi những nhiệm vụ mà họ được giao phó bởi bộ máy cầm quyền” ].

Vì vậy mà chủ nghĩa xã hội chỉ có thể được đưa vào thực tiễn bằng những biện pháp mà đa số những người XHCN trên lý thuyết sẽ phản đối. Hệ quả là những quyết định của nó đưa ra sẽ không cần phải dựa trên đa số, mà dựa trên các thành viên của một nhóm nhỏ lãnh đạo. Cái nhóm này chẳng mấy chốc sẽ thâu tóm toàn bộ xã hội trong bàn tay sắt của nó và chăn dắt người dân của chúng như chăn dắt một đám súc vật.

“Có ba lí do vì sao cái nhóm đông và mạnh, với những thành viên có quan điểm giống nhau, lại không được hình thành từ những người tử tế nhất, mà thường là từ những phần tử xấu xa nhất của xã hội. Một nhóm như thế, chỉ có hình thành trên những nguyên lí hoàn toàn mang tính tiêu cực”:

“Thứ nhất, những người có trình độ học vấn và tri thức càng cao thì thị hiếu và quan điểm của họ càng phân hóa, họ khó có thể thống nhất về bất cứ thang giá trị nào” [ Vì mỗi người dựa trên những nghiên cứu riêng, hiểu biết riêng và trải nghiệm riêng của họ, họ tin rằng họ là những bản thể riêng biệt chứ không phải những phải sao giống nhau ]. Kết quả là, họ rất khó đồng thuận và chịu đứng chung vào hàng ngũ đông đảo những người khác.

“Như vậy có nghĩa là nếu chúng ta muốn tìm một sự thống nhất cao về quan điểm thì chúng ta phải tìm trong những tầng lớp xã hội với tiêu chuẩn đạo đức và tri thức không cao, với thị hiếu và bản năng nguyên thủy và thô lậu”. Tuy nhiên, ở đây, tác giả cũng nhấn mạnh rằng “Điều đó không có nghĩa rằng đa số dân chúng có tiêu chuẩn đạo đức thấp”. Điều này chỉ có nghĩa là cái nhóm gồm nhiều thành viên với những chuẩn mực, giá trị có vẻ giống nhau đó là NHỮNG NGƯỜI KHÔNG TỎ RA KHẮT KHE VÀ KHÔNG CÓ CHÍNH KIẾN RIÊNG MẠNH MẼ VỀ NHỮNG GIÁ TRỊ, TIÊU CHUẨN ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI NÓI CHUNG.

“Có thể nói chính cái mẫu số chung này đã liên kết rất nhiều người lại với nhau. Nếu chúng ta cần một nhóm tương đối đông đủ mạnh, để buộc những người khác phải chấp nhận các quan điểm và giá trị của nhóm mình, thì không bao giờ chúng ta lại tìm đến những người có thị hiếu cao và có chính kiến rõ ràng khác biệt. Chúng ta sẽ tìm đến với “quần chúng” – theo ý nghĩa tiêu cực của từ này – tìm đến những người kém độc đáo và ít độc lập nhất, những người có thể lấy số lượng làm bệ đỡ cho lí tưởng của họ”.

Nhưng nếu nhà độc tài tương lai muốn nắm chặt quyền lực trong tay hắn, thì chỉ những người như thế này không đủ sức thực hiện những nhiệm vụ hắn đặt ra, hắn còn phải tăng thêm số thành viên của mình bằng cách kết nạp thật nhiều người vào cùng cái tín điều của hắn nữa [ Đảng viên trung kiên ].

Vì vậy, tiêu chuẩn thứ hai cũng tiêu cực không kém: Nhà độc tài PHẢI TÌM ĐƯỢC SỰ ỦNG HỘ CỦA NHỮNG KẺ DỄ BẢO VÀ CẢ TIN, những kẻ không có niềm tin riêng mà sẵn sàng chấp nhận các hệ thống giá trị sẵn có, miễn là điều đó được rót vào tai [ tuyên truyền, nhắc nhở ] họ liên tục. “Chính những kẻ với các tư tưởng mù mờ và được hình thành một cách dở dang, những kẻ dễ dàng dao động, những kẻ mà tình cảm và niềm đam mê sẵn sàng bùng nổ bất cứ lúc nào sẽ là thành phần đông nhất trong các đảng viên của đảng toàn trị”.

Tiêu chuẩn thứ ba, “và có lẽ là quan trọng và cần thiết nhất, mà một kẻ độc tài mị dân lão luyện có thể tập hợp chung quanh mình một nhóm cố kết những người ủng hộ. Đó là, bản chất của con người là dễ dàng đồng thuận trên cơ sở một cương lĩnh mang tính tiêu cực – Ý CHÍ CĂM THÙ GIẶC, LÒNG GHEN TỨC VỚI NHỮNG KẺ KHÁ GIẢ HƠN MÌNH – hơn là trên cơ sở một nhiệm vụ mang tính tích cực”.

Sự tương phản giữa “CHÚNG TA” và “CHÚNG NÓ” [CNTB-CNXH, GIAI CẤP TƯ SẢN – GIAI CẤP VÔ SẢN], cuộc chiến đấu chống lại những kẻ “nằm bên ngoài tổ chức” – the outsiders – chính là chất keo kết dính trong mọi giáo lí, chính nó sẽ gắn chặt những người khác nhau thành một nhóm chiến đấu cho những lý tưởng chung.

“Ở đây, những kẻ cầm đầu muốn săn tìm không chỉ sự ủng hộ về mặt chính trị, mà còn săn tìm lòng trung thành vô điều kiện của quần chúng, đã cố lợi dụng cái phần tiêu cực đó trong bản chất con người để sử dụng cho mục đích cai trị của chúng”. Khích lệ phần bản chất tiêu cực này trong con người sẽ cho đám lãnh đạo quyền tự do hành động bất chấp mọi đạo đức, pháp luật, luân lý hơn bất cứ cương lĩnh tích cực nào. Đây chính là một trong những lý do người Do Thái trở thành mục tiêu tàn sát của Đức Quốc Xã, người Kulak [ nông dân tự do hữu sản ở Nga ] trở thành mục tiêu của các nhà cộng sản vô sản Nga. Khi đem những con người thành công trong nhiều lĩnh vực trên thế giới [ người Do Thái ] và những con người nông dân tự do có sở hữu ruộng đất ra [ Kulak ] để tố cáo và cường điệu hóa quá mức sự thành đạt của họ trước những đám dân vô sản và kém thành công hơn, sẽ khiến cho hố sâu căm thù giữa bọn họ càng trở nên khủng khiếp hơn. LÒNG CĂM THÙ NÀY ĐƯỢC CỐ Ý NHẮC NHỞ THƯỜNG XUYÊN, MỘT CÁCH CÓ MỤC ĐÍCH, sẽ tạo ra những vết thương không bao giờ có khả năng lành lặn trong những tầng lớp nhân dân lao động nghèo khổ, có như vậy nó mới khiến họ sẵn sàng hy sinh, sẵn sàng dâng hiến tất cả sức lực, tài lực, vật lực của họ mà chiến đấu cho mục tiêu của các nhà độc tài.

Để hoàn thành mục tiêu này, nhà độc tài lúc này sẽ huy động cái đội ngũ trung thành tuyệt đối vô điều kiện mà ông ta đã tuyển mộ từ trước [ những người cảm tình đảng, những đảng viên trung kiên, mù quáng, tận tụy ]. Ông ta giục giã, thúc ép bè lũ này đi làm cái việc “nhắc nhở” những quần chúng của họ về sự khác biệt,về lòng căm thù cần phải giữ vững giữa CHÚNG TA VÀ KẺ THÙ CỦA CHÚNG TA, nhằm đảm bảo rằng những vết thương của quần chúng nhân dân về sự khác biệt này không bao giờ ngừng rỉ máu.

Tuy nhiên, để đổi lấy lòng trung thành của họ, các nhà độc tài sẽ phải chia cho họ các lợi ích tương xứng với khả năng của họ. Những lợi ích này, cả về quyền lợi vật chất lẫn quyền lợi chính trị, từ từ sẽ dẫn đến việc CNXH không bao giờ còn có khả năng theo đuổi những điều nó đã hứa với người dân nữa [ hạnh phúc, của cải cho toàn dân ], mà nó chỉ còn có khả năng dồn mọi thực lực của nó để tạo lập và củng cố các nhóm trung thành với nó, và từ một thứ chủ nghĩa to lớn đầy hứa hẹn, nó teo tóp lại thành những nhóm lợi ích nhỏ, bỏ đám đông quần chúng nhân dân với những lời hứa to lớn, đầy hão huyền cho họ ở lại phía sau.

Phần 2: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek — Tóm Tắt. Tác Giả: Từ Liên.

Phần 3: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.

Phần 4: Đường Về Nô Lệ ( The Road to Serfdom ) — Friedrich von Hayek. Tác Giả: Từ Liên.

Tác giả: Từ Liên.