2022, các sử gia Cao Đài vẫn cố chấp…

Vì sự căm hận mùa quáng đối với chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa mà các sử gia Cao Đài cứng đầu cứng cổ vẫn rêu rao cái luận điệu của đám giặc trọc Ấn Quang: Ngô Đình Diệm đàn áp tôn giáo, ngoại trừ Thiên Chúa Giáo!

Đạo Cao Đài đất Tây Ninh đã và luôn có một vai trò quan trọng trong việc phát triển nguyên khí đất Phương Nam… đặc biệt vào giai đoạn hậu Đệ Nhị Thế Chiến.

Hộ Pháp đời thứ nhì, Đức Phạm Công Tắc, tham vọng cá nhân quá cao. Vì nhu cầu khẩn thiết phải bình định và thống nhất Việt Nam Cộng Hòa đang bị chia năm xẻ bảy bởi các lãnh chúa Đông, Tây Nam Bộ và Sài Gòn Gia Định, chính phủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã phải sử dụng nhiều biện pháp để các lãnh chúa này phải đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi tổ chức và cá nhân của các vị ấy…

Các biện pháp mạnh tay này đã khiến những người như Bảy Viễn của Bình Xuyên, mà thực sự là tay sai của Phòng Nhì Pháp phải lưu vong; và cụ Hộ Pháp Phạm Công Tắc một lần nữa phải lưu vong sang Cambodge — và lần nay là lưu vong sau cùng trong đời cụ, cụ đã mất ở Cambodge.

— Cụ lưu vong là chuyện cực chẳng đã, cụ đã không chấp nhận chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa: cụ hiểu được họa cộng sản, nhưng cụ đã không chịu hiểu chỉ một chính quyền quốc gia chính danh mới đủ khả năng bảo vệ Miền Nam khỏi họa xâm lăng của cộng sản Bắc Việt… Và hơn nữa cụ vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi sự ảnh hưởng khynh đảo của tàn dư thực dân Lang Sa còn thoi thóp ở Miền Nam.

Cụ khư khư muốn ôm đất Tây Ninh làm Lãnh Thổ Tự Trị của Cao Đài.

Vì sự căm hận mùa quáng đối với chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa mà các sử gia Cao Đài cứng đầu cứng cổ vẫn rêu rao cái luận điệu của đám giặc trọc Ấn Quang: Ngô Đình Diệm đàn áp tôn giáo, ngoại trừ Thiên Chúa Giáo!

Tụi giặc trọc đã góp phần tích cực vào việc làm sụp đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa.

Có lẽ một người với trí thông minh trung bình cũng nhận thấy chưa bao giờ Cao Đài bị đàn áp và khuynh đảo một cách dã man như thời cộng sản thống trị toàn cõi Việt Nam.

Thực dân Pháp đã có thời đàn áp Cao Đài khá mạnh tay, nhưng cũng chưa bao giờ chiếm đóng các hạ tầng cơ sở của Cao Đài; rồi khi người Nhật xâm lăng Việt Nam họ cũng chẳng đàn áp Cao Đài, còn viện trợ vũ khí, chuyên gia để giúp quân đội Cao Đài đánh cộng sản.

Chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa của Tổng Thống Ngô Đình Diệm chưa bao giờ kỳ thị, cũng như chưa bao giờ đàn áp tôn giáo: tỷ lệ những người Phật Giáo nắm các vị trí quan trọng trong chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa cao hơn Thiên Chúa Giáo rất nhiều.

— Nhưng một sự thật không thể chối bỏ được, vết nhơ đối với Tổng Thống Ngô Đình Diệm là việc xử tử Tướng Hòa Hảo Ba Cụt Lâm Quang Vinh, Tướng Ba Cụt đã bị lừa theo kiểu “Lễ tiền binh hậu”, dù với bất cứ ly do gì, Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người phải chịu trách nhiệm trực tiếp với cái chết của Tướng Ba Cụt.

Các sử gia Cao Đài cần phải can đảm để viết đúng suy nghĩ của mình: các vị không phải là những người có tầm suy luận hạn hẹp như vậy.

Cộng sản đã tạo rồi một nuồi các dối trá lịch sử: quý vị đừng vì sự cố chấp của mình mà tiếp tay cho chúng.

Melbourne, 12/11/2022.

Hoàng Sa — Vô Danh

Bài thơ này được lưu truyền trên mạng với chú thích “năm 1974, khi nghe tin xảy ra trận đánh Hoàng Sa, một người phía bên kia vĩ tuyến 17 ngậm ngùi làm bài thơ vinh danh các chiến sĩ HQVN đã hy sinh để bảo vệ hải biên Tổ Quốc.”

Hoàng Sa

Xin kể thêm tôi
Thành mười chín triệu một người
Trái tim tôi đập về trong nớ
Dòng máu xa nguồn bỗng giận sôi
Hoàng Sa, Hoàng Sa!
Cái tên nghe buồn như thở ban sơ
Đối với tôi đã là da thịt
Dẫu chỉ là một mảng san hô
Lại đau chăng vết buốt tự ngàn xưa
Trang sử cũ còn hằn dấu ngựa
Từ thảo nguyên xa, từ biên ải lửa
Khói tràn về đen thẫm những ước mơ
Đếm biết bao nhiêu người vợ đợi chờ
Em ơi, trên từng trang sử nhỏ
Xin kể thêm tôi
Thành mười chín triệu một người
Thành viên gạch hồng tươi
Làm bức tường thành ngăn triền sóng dữ
Làm chiếc vò đựng mùa Xuân ngọt lự
Giữ không rơi một gịot mật nào
Mỗi giọt ra đi chính giọt máu đào
Từ cuộc đời cha ông nhỏ xuống
Người bạn Hải Quân Miền Nam ơi
Trân đảo mù sương hôm đó có tay anh cầm súng
Từ những hạm tầu rẽ sóng đại dương
Tôi thấy pháo anh dương nòng sừng sững
Cuộc chiến kết thúc dù bi thảm
Bài ca anh hùng vẫn vọng trời cao
Xin cho thơ tôi góp phát súng chào
Vĩnh biệt tuần dương chìm dần giữa sóng
Đáy biển âm thần ngàn năm lạnh cóng
Vẫn mặn nồng lòng tổ quốc ta
Xin cho thơ tôi làm thảm sóng ngân nga
Ru giấc ngủ những chàng trai dũng cảm
Tiếng cười ngày nào còn ran trong nắng
Đôi mắt ngày nào đọng mắt người thương
Tôi biết mùa xuân chưa đến bao giờ
Ngực đảo còn đau ngàn bàn chân lạ
Hoàng Sa, xa vời ơi Hoàng Sa!
Tên người ngân buồn như bản Thánh Ca.

❀❀❀

Chú: bài thơ này được lưu truyền trên mạng với chú thích “năm 1974, khi nghe tin xảy ra trận đánh Hoàng Sa, một người phía bên kia vĩ tuyến 17 ngậm ngùi làm bài thơ vinh danh các chiến sĩ HQVN đã hy sinh để bảo vệ hải biên Tổ Quốc.”

VĂN TẾ 74 TỬ SĨ TRONG TRẬN HẢI CHIẾN HOÀNG SA

© Nguyễn Phúc Vĩnh Ba | Huế, ngày 18/01/2014.

( Tưởng niệm 40 năm ngày 19/01/1974. )

❀❀❀

Hỡi ơi!
Nhẹ tựa lông hồng,
Nặng tày non Thái.
Những cái chết đã đi vào quốc sử, con cháu nghe mà xót dạ bàng hoàng,
Bao con người vì gánh vác giang sơn, cây cỏ thấy cũng chạnh lòng tê tái.
Anh linh kia hoài phảng phất thiên phương,
Chính khí đó sẽ trường tồn vạn tải.

Mới hay,

Giòng giống Việt luôn còn nòi nghĩa dũng, thịt tan xương nát sá chi,
Trời đất Nam đâu thiếu bậc anh hùng, máu đổ thây rơi nào ngại.
Kính các anh vị quốc thân vong
Bày một lễ thâm tình cung bái.

Nhớ các anh xưa,

Tuổi trẻ thanh xuân,
Khí hùng chí đại.
Thời binh hỏa đâu màng gì nhung gấm, chọn tri âm tri kỷ chốn sa trường,
Thuở can qua há tiếc chút bình an, nguyền báo quốc báo dân nơi hiểm ải.
Một tấc đất vẫn là cương thổ, ông cha xưa bao đời gầy dựng, sao cam lòng để vuột mất đi.
Dăm hòn đảo ấy vốn bản hương, anh em nay mấy độ canh cày, quyết tận sức ra gìn giữ mãi.
Từ Chúa Nguyễn sách văn (1) chép rõ, nhân dân Nam từng khai thác làm ăn,
Đến Pháp Thanh công ước (2) còn ghi, chủ quyền Việt chẳng luận bàn tranh cãi.
San Francisco hội nghị (3), mừng biết bao, thấy thế giới đồng lòng,
Việt Nam Quốc gia chính quyền (4), vui xiết kể, đón sơn hà trở lại.

Thế nên,

Đất cát ông cha thì phải giữ, dẫu mũi tên hòn đạn không sờn,
Núi sông tiên tổ sao chẳng gìn, mặc ăn gió nằm mưa chi nại.
Trùng dương sóng dữ, mập mờ thuyền viễn thú, thân trai há sợ kiếp gian nan,
Hải đảo gió cuồng, vời vợi biển quê hương, vai lính thêm bền lòng hăng hái.
Hội khao lề lại trống chiêng bi tráng, tiễn người đi mờ bóng cuối chân trời,
Nơi quê nhà đành con vợ u buồn, thương kẻ đợi trông buồm về trước bãi.

Có ngờ đâu,
Giặc ác hiểm quen tuồng xâm lược, máu tham tàn không giấu kín ý gian,
Ta hiền lương chuộng đạo hiếu hòa, tình hữu nghị có đâu ngoài lẽ phải.
Địch thả câu nước đục, hai ba lần chiếm đảo (5), xây đồn đắp lũy đó đây,
Chúng luồn gió bẻ măng, bốn năm dạo lên bờ, dựng trại cắm cờ lải rải.
Ngày 16 Quang Hòa, Hữu Nhật (6),… giặc đã nuốt tươi,
Đến 17 Duy Mộng, Quang Ảnh (6),.. chúng đang xơi tái.
Lửa hờn bốc tận thanh vân.
Khí uất tràn đầy thương hải.
Ghìm máu nóng, thông tin bằng quang hiệu, giặc cứ ngang tàng,
Hạ quyết tâm, biệt hải tiến vào bờ, ta ôm thất bại.
Không nản chí, Thường Kiệt, Nhật Tảo băng băng pháo đạn xông pha,
Chẳng dùi lòng Bình Trọng, Khánh Dư (7) né né tiễn lôi lèo lái.
Vẳng đôi tai còn nghe khúc “Thuật Hoài” (8)
Bừng con mắt đà thấy câu “Trung Ngãi” (9)

Thế nhưng,

Lực bất tòng tâm,
Thiên dung vô lại (10).
Giặc đã nhiều chuẩn bị, nào tảo lôi, nào liệp đỉnh, tàu nhiều quân bộn giàn hàng,
Ta mất thế thượng phong, kìa phóng lựu, kìa trung liên, đảo trảng bờ xa phải trải.
Phía chếch đông tàu Mỹ đứng mà nhìn,
Phương chính bắc hạm Tàu nằm sắp phái.
Dù như thế ta vẫn quyết thư hùng
Có ra sao mình cứ liều sống mái.
Đùng đoành đại bác nổ thấp cao,
Sàn sạt hỏa tiễn bay trái phải,
Ngụy Văn Thà (11) trúng thương trước ngực, máu anh hùng đẫm ướt chiến y,
Lý Thường Kiệt (12) lãnh đạn ngang hông, nước đại hải ngập đầy buồng máy.
Khói mù tàu giặc cháy bốc lên,
Pháo nổ phe mình câu vọng lại.

Thương ơi!

Thế lực không cân
Thời cơ cũng trái.
Bảy tư người bỏ mình vì nước, biển sâu ký gởi thân phàm,
Cả bốn tàu trúng pháo quân thù, bờ cạn lui về gác mái.
Chìm nổi thuyền, trùng dương xanh xa xót cảnh điêu tàn,
Ngổn ngang xác, hải đảo lạnh thê lương niềm địch khái.
Cờ quốc gia phủ người ra trận, toàn quân dân uất ức trẻ như già
Vành khăn tang chít tóc đang xanh, bao thân quyến nghẹn ngào trai lẫn gái.

Công các anh,

Tổ quốc thề không quên,
Toàn dân nguyền nhớ mãi.
Chống ngoại xâm là truyền thống muôn đời
Giữ lãnh thổ vốn luân thường vạn đại.
Máu tử sĩ đổ sẽ nuôi khôn dân tộc, mau kiên trì giành lại giang sơn,
Xương anh linh chìm rồi nung chín hùng tâm, sớm quyết liệt san bằng oan trái.
Nước cường thịnh khi dân biết kết đoàn,
Dân phú túc lúc người luôn thân ái.

Hôm nay.

Sơ sài lời điếu câu văn,
Đạm bạc chùm hoa dĩa trái.
Kính uy linh, xin tượng tạc bia xây,
Tỏ thâm tạ, khiến dân quì quan vái.
Mong các anh siêu độ tái sinh,
Cầu đất nước dân an quốc thái.

Hỡi ơi!

Xót xa tiếng mất ý còn,
Tha thiết lòng phơi ruột trải.
Hồn có linh thiêng
Niệm tình thụ bái.

Huế, 18/01/2014.


Ghi chú:

  1. Đầu TK 17, Chúa Nguyễn tổ chức khai thác trên các đảo. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải có nhiệm vụ ra đóng ở hai quần đảo, mỗi năm 8 tháng để khai thác các nguồn lợi: đánh cá, thâu lượm những tài nguyên của đảo và những hoá vật do lấy được từ những tàu đắm. Năm 1816, vua Gia Long chính thức chiếm hữu đảo, ra lệnh cắm cờ trên đảo và đo thuỷ trình. Năm 1835, vua Minh Mạng cho xây đền, đặt bia đá, đóng cọc, và trồng cây. Đội Hoàng Sa và Đội Bắc Hải được trao nhiều nhiệm vụ hơn: khai thác, tuần tiễu, thu thuế dân trên đảo và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ hai quần đảo. Hai đội này tiếp tục hoạt động cho đến khi người Pháp vào Đông Dương.
  2. Ngày 9 tháng 6 năm 1885: Hòa ước Thiên Tân kết thúc chiến tranh Pháp Thanh. Ngày 26 tháng 6 năm 1887: Pháp và nhà Thanh xúc tiến ấn định biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Hoa.
  3. Ngày 6 tháng 9 năm 1951: Tại Hội nghị San Francisco về Hiệp ước Hòa bình với Nhật Bản, vốn không chính thức xác định rõ các quốc gia nào có chủ quyền trên quần đảo, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu tuyên bố rằng cả quần đảo Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa đều thuộc lãnh thổ Việt Nam, và không gặp phải kháng nghị hay bảo lưu nào từ 51 nước tham dự hội nghị.
  4. Năm 1954 – Hiệp định Geneva quy định lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới quân sự tạm thời (bao gồm cả trên đất liền và trên biển). Quần đảo Hoàng Sa nằm ở phía Nam vĩ tuyến 17, được giao cho chính quyền Quốc gia Việt Nam (quốc trưởng Bảo Đại đứng đầu) quản lý.
  5. Năm 1956, lợi dụng tình hình quân đội Pháp phải rút khỏi Đông Dương theo quy định của Hiệp định Geneva và trong khi chính quyền miền Nam Việt Nam chưa kịp tiếp quản quần đảo Hoàng Sa theo như thỏa thuận của hiệp định này, Trung Quốc đã thừa cơ đưa quân ra chiếm đóng bất hợp pháp nhóm đảo phía Đông quần đảo Hoàng Sa bao gồm Phú Lâm và Linh Côn. (Trần Công Trực)
  6. Tên các hòn đảo bị Trung Quốc xâm chiếm.
  7. Tên bốn chiến hạm tham gia trận hải chiến Hoàng Sa: HQ4 (Trần Khánh Dư), HQ5 (Trần Bình Trọng), HQ10 (Nhật Tảo), và HQ16 (Lý Thường Kiệt).
  8. Tên bài thơ của danh tướng Phạm Ngũ Lão đời Trần được Hạm trưởng HQ4 Trung tá Vũ Hữu San đọc để cổ võ tinh thần binh sĩ trước giờ khai hỏa.
  9. Tức là Trung Nghĩa, bổn phận của người lính.
  10. Trời dung tha phường vô lại.
  11. Thiếu tá Ngụy Văn Thà là hạm trưởng HQ10 Nhật Tảo.
  12. Lý Thường Kiệt là tàu HQ16.

Nguồn:

Hải chiến Hoàng Sa 19/01/1971: VNCH xác định chủ quyền! Ngụy +phỉ bán biển đảo!

Hải Chiến Hoàng Sa 19/01/1974: Hải Chiến Việt Trung Quá Khứ và Hiện Tại. Bác sỹ Yên Cư Trần Đại Sỹ

Một đoạn trong bài thuyết trình của Bác sỹ Trần Đại Sỹ. Trích đoạn của buổi nói chuyện được phổ biến qua email vào khoảng 19/01/2017 hay trước đó. Tôi giữ cách viết chữ Việt ( thí dụ: Tây-sa, cách viết của những năm 1950-1960 ) của email được gửi đi.

Từ trước đến giờ, có nhiều vị hiện diện hôm nay từng đặt câu hỏi với tôi rằng: Tại sao năm 1974, thình lình Trung-quốc đem quân đánh quần đảo Hoàng-sa ( Tây-sa ) từ VNCH. Trận chiến diễn ra ngắn ngủi, phía Trung-quốc bị thiệt hại gấp ba VNCH ( về nhân mạng, về chiến hạm, tài liệu này tôi có từ phía Trung-quốc ). Nhưng VNCH vì quân ít, vũ khí chỉ có đại bác, chiến hạm nhỏ. Trong khi Trung-quốc có hỏa tiễn, chiến hạm lớn đông gấp bội VNCH. VNCH lại đang có nội chiến, phải đương đầu với quân đội VNDCCH, vì vậy VNCH phải bỏ kế hoạch tái chiếm Hoàng-sa. Bấy giờ Hoa-kỳ với VNCH có hiệp ước hỗ tương an ninh, Hoa-kỳ đang tham chiến tại Việt Nam, hạm đội 7 hùng hậu đang tuần hành gần vùng giao chiến. Tại sao Hoa-kỳ không can thiệp, không lên tiếng bênh vực VNCH? Ngay việc thủy thủ VN, tầu bị chìm, mà hạm đội 7 cũng không vớt theo luật hàng hải Quốc-tế.

Cử tọa hỏi, câu hỏi thứ 4

  • Xin Giáo Sư ( Gs ) cho biết trong trận hải chiến này, phía Trung-quốc, VNCH, bên nào nổ súng trước?

Gs Trần Đại Sỹ ( TĐS ):

  • Thưa VNCH. Hải-quân VNCH rất thiện chiến, tác xạ rất chính xác, các sĩ quan đều được huấn luyện theo tiêu chuẩn Âu-Mỹ, thêm kinh nghiệm VN. Ngay loạt đạn đầu tiên khiến 4 hạm trưởng Trung-quốc tử trận.

Tôi xin trở lại đầu đề:

Vì:

Trong-cuộc mật đàm giữa Hoa-kỳ ( Kissinger ) và Trung-quốc ( Mao Trạch Đông ). Phía Trung-quốc trao cho ông Kissinger bản tuyên bố lãnh hải 14-9-1958 cùng bản đồ. Ông Kissinger đã công nhận bản tuyên bố đó. Cho nên ông Kissinger vừa rời Trung-quốc hai ngày, thì ngày 11 tháng 1 năm 1974, Trung-quốc tuyên bố hai quần đảo Tây-sa ( Hoàng-sa ) và Nam-sa ( Trường-sa ) là của Trung-quốc, rồi Trung-quốc đem hạm đội xuống Hoàng-sa. Bấy giờ Hoàng-sa do VNCH trấn đóng.

Vì:

Văn thư của ông Phạm Văn Dồng công nhận quần đảo này là của Trung-quốc. Trung-quốc chiếm Hoàng-sa chỉ là việc chiếm lại lãnh thổ được văn thư 14-9-1958 công nhận. Nghĩa là Trung-quốc chiếm lại lãnh thổ đã bị VNCH xâm lăng 16 năm.

Ngắt đoạn 4,

Cử tọa hỏi, câu hỏi 5, cấm phổ biến

Về nguồn gốc tài liệu cuộc mật đàm giữa Chủ-tịch Mao Trạch Đông và Cố-vấn Kissinger. Gs Trần trình bày chi tiết. Toàn bộ cử tọa chấp nhận; nhưng chúng tôi bị cấm không được phổ biến.

Sau khi Gs Trần trình bầy, một trong ba vị chủ tọa phát biểu:

Tôi xin bổ túc những gì Gs Trần lướt qua. Bấy giờ ( 1974 ) là thời điểm chiến tranh Đông Dương đang diễn ra cực kỳ sôi động, mà tình hình giữa Liên-sô với Trung-quốc cũng căng thẳng cực kỳ. Qua những cuộc mật đàm giữa Chủ-tịch Mao Trạch Đông với Cố-vấn Kissinger; Trung-quốc, Hoa-kỳ đã đi đến những thỏa thuận quan trọng. Rồi Tổng-thống Richard Nixon thăm Trung-quốc.

Chúng ta đều biết sự hiện diện, của Hoa-kỳ tại Đông Dương là ngăn chặn hai mũi dùi Cộng-sản từ Afghatistan, Đông Dương nối với nhau. Bây giờ Hoa-kỳ biết chắc Trung-quốc, Liên-sô không thể hàn gắn lại, khối Cộng bị vỡ làm nhiều mảnh. Vì vậy sự hiện diện của Hoa-kỳ trở thành vô ích, vừa tốn tiền, vừa tốn máu. Cho nên họ muốn rút ra khỏi Đông Dương, dùng Đông Dương làm bình xăng tưới vào ngọn lửa đang thiêu đốt căn nhà ngoại giao Trung-Sô.

Chìa khóa của Đông Dương là Việt Nam. Mà tại Việt Nam, mọi quyết định do Bộ Chính-trị. Chủ-tịch Hồ Chí Minh chết 5 năm rồi, vấn đề tranh quyền đã ngã ngũ, phe chạy theo Liên-sô Lê Duẩn, Lê Đức Thọ thắng thế. Trung-quốc biết rất rõ. Suốt bao năm Trung-quốc cưu mang cho Bắc VN, nay bỗng dưng Trung-quốc mất hết, chỉ còn tay trắng. Trung-quốc phải kiềm chế Bắc VN. Thế nhưng Trung-quốc muốn kiềm chế mà không được. Mao tìm cách nắm Cambodge mà bấy giờ Cambodge còn nằm trong tay Bắc VN. Vì vậy Trung-quốc muốn tìm cách dùng Nam VN ( VNCH ) làm bức tường cản Bắc Việt Nam ( VNDCCH ). Trung-quốc tìm cách gần Nam VN bằng hai ngả:

Ngả thứ nhất

Mật sứ của Trung-quốc tại Londre ( Luân Đôn ) gặp Đại-sứ Nam VN ( VNCH ) ngỏ ý cho biết Hoa-kỳ đang muốn trao VNCH cho Bắc VN. Nếu VNCH muốn, Trung-quốc sẽ giúp như sau: Mặt Bắc, chặn con đường tiếp tế từ đường bộ Liên-sô qua lãnh thổ Trung-quốc. Trung-quốc đem đại quân ép Bắc biên. Mặt Nam tiếp tế vũ khí cho VNCH. Như vậy bắt buộc Bắc VN phải rút quân về.

Ngả thứ nhì

Trung-quốc qua mấy nhân vật trí thức VN trong Phong Trào Liên Bang Đông Nam Á ( hội tư luật 1901 ) tại Paris, trực tiếp nói cho Tổng-thống, và Bộ Ngoại-giao VNCH biết rằng: Việc Hồng-quân tiến xuống Trường-sa chỉ là cái cớ để Trung-quốc với VNCH ngồi vào bàn hội nghi. Nhưng không rõ VNCH có biết hay không, mà lại khai hỏa trước.

Cử tọa hỏi, câu hỏi 6

  • Hồi đầu năm 1974, tôi có đọc trên một tờ báo Anh-ngữ xuất bản tại Hương-cảng tường thuật về trận đánh giữa VN ( VNCH ) và Trung-quốc ngày 19-1-1974 trong vùng quần đảo Hoàng-sa. Giáo-sư có thể cho biết: Lực lượng tham chiến của hai bên ra sao? ( Người đặt câu hỏi nguyên là Đô đốc. )

Gs Trần Đại Sỹ:

  • Thưa Ngài tôi xin chiếu lên màn ảnh để Ngài thấy.

Về phía VNCH:

  1. Lực lượng tham chiến:
  • Khu trục hạm Trần Khánh Dư, ký số HQ4, hạm trưởng là Trung-tá Vũ Hữu San.
  • Tuần dương hạm Trần Bình Trọng, ký số HQ5, hạm trưởng là Trung-tá Phạm Trọng Quỳnh.
  • Hộ tống hạm Nhật-tảo, ký số 10, hạm trưởng là Thiếu-tá Ngụy Văn Thà. Khi chiến hạm hỏng máy, bị chìm, trong khi tất cả thủy thủ đoàn xuống xuồng chạy, thì ông cương quyết ở lại, chết với tầu của mình. Tuẫn quốc.
  • Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt, ký số HQ16, hạm trưởng là Trung-tá Lê Văn Thư.
  1. Lực lượng trừ bị:
  • Tuần dương hạm Trần Quốc Toản, ký số HQ6.
  • Hộ tống hạm Chí-linh, ký số HQ11
  • Không quân: Phi đoàn F5-A37.

Nhưng lực lượng trừ bị Hải-quân ở quá xa chưa kịp can thiệp thì trận chiến đã kết thúc. Không quân thuộc Quân-khu I, không can thiệp. Vì vậy sau trận đánh, Tư-lệnh Hải-quân ra lệnh cho các sĩ quan tham dự, không thuyết trình cho Tư lệnh quân khu I.

Về phía Trung-quốc:

  1. Lực lượng tham chiến:
  • Hộ tống hạm Kronstadt, ký số 271, hạm trưởng là Đại-tá Vương Kỳ Uy, tử thương.
  • Hộ tống hạm Kronstadt, ký số 274, hạm trưởng là Đại-tá Quan Đức. Đây là soái hạm của chiến dịch. Tư lệnh mặt trận là Đô đốc Phương Quang Kinh, Tư-lệnh phó hạm đội Nam-hải của Trung-quốc với bộ tham mưu đi trên chiến hạm này. Khoảng giữa trận chiến, ông cùng bộ tham mưu tử thương ( 1 Đô đốc, 4 Đại-tá, 6 Trung-tá, 2 Thiếu-tá, và 7 sĩ quan cấp úy ).
  • Trục lôi hạm, ký số 389, hạm trưởng là Trung-tá Triệu Quát, tử thương.
  • Trục lôi hạm, ký số 396, hạm trưởng là Đại-tá Diệp Mạnh Hải, tử thương.
  • Phi tiễn đỉnh Komar 133, trang bị hỏa tiễn đĩa địa Styx hạm trưởng là Thiếu-tá Tôn Quân Anh.
  • Phi tiễn đỉnh Komar 137, trang bị hỏa tiễn đĩa địa Styx, hạm trưởng là Thiếu-tá Mạc Quang Đại.
  • Phi tiễn đỉnh Komar 139, trang bị hỏa tiễn đĩa địa Styx, hạm trưởng là Thiếu-tá Tạ Quỳ.
  • Phi tiễn đỉnh Komar 145, trang bị hỏa tiễn đĩa địa Styx, hạm trưởng là Thiếu-tá Ngụy Như.
  • 6 Hải vận hạm chở quân.
  1. Lực lượng trừ bị:
  • 2 Tuần dương hạm.
  • 4 Pháo-hạm.
  • 4 Khu trục hạm trang bị hỏa tiễn Kianjiang.
  • 2 Phi đội MIG 19.
  • 2 phi đội MIG 21.

Do chính Đô Ðốc Tư-lệnh hạm đội Nam-hải chỉ huỵ. Chúng tôi không biết tên ông.

Cử tọa hỏi, câu hỏi 7

  • Tổn thất 2 bên ra sao? ( Vẫn vị cựu Đô đốc trên. )

Gs Trần Đại Sỹ:

  • Xin mời ngài xem bảng so sánh, tôi chiếu lên.

Về phía VNCH:

  • HQ 4-5-16 bị thương, rút về Đà-nẵng, sau khi sửa chữa, lại hoạt động như cũ.
  • HQ10 bị chìm.
  • Một hạm trưởng tử thương.

Về phía Trung-quốc:

  • Tư lệnh mặt trận, bộ tham mưu và 4 hạm trưởng tử thương.
  • Hộ tống hạm 274 bị chìm.
  • Hộ tống hạm 271 và hai trục lôi hạm 389-396 bị hư hại nặng phải ủi bãi, sau đó phải phá hủỵ.
  • 4 ngư thuyền chở quân bị chìm.

Cử tọa hỏi, câu hỏi 8, cấm phổ biến.

Cử tọa hỏi, câu hỏi 9

  • Tôi nghe Hoa-kỳ trang bị cho VN ( VNCH ) những vũ khí, cũng như chiến hạm tối tân nhất. Trong khi Giáo-sư chiếu hình 4 chiến hạm tham chiến đều thuộc loại hạ thủy vào thập niên 1940, quá cũ kỹ. Vũ khí cũng vậy. Tại sao VN ( VNCH ) không đem những chiến hạm, vũ khí tối tân ra tham chiến? ( Người đặt câu hỏi nguyên là kỹ sư hàng hải ).

Gs Trần Đại Sỹ:

  • Thưa quả đúng như Ngài nhận xét. Tất cả chiến hạm Hoa-kỳ viện trợ cho VNCH đều thuộc loại phế thải. Thay vì Hoa-kỳ phá hủy, họ tân trang lại rồi trao cho VN. Bốn chiến hạm tham dự trận đánh đều là những chiến hạm tốt nhất mà VN nhận được. HQ4 hạ thủy năm 1943. ( Cử tọa bật cười ). HQ5 hạ thủy năm 1944. HQ10 hạ thủy năm 1942. HQ 16 hạ thủy năm 1942. Còn vũ khí, cũng có chiến hạm trang bị loại đại bác bắn liên thanh. Nhưng khi trao cho VN thì Hoa-kỳ tháo đi. Dường như Hoa-kỳ đoán trước có cuộc hải chiến này, nên một chiến hạm trang bị loại đại bác trên, tuy đã trao cho VNCH, nhưng bị tháo đi trước đó mấy tháng. Bằng không phía Trung-quốc bị thiệt hại còn nặng hơn nhiều.

Cử tọa hỏi, câu hỏi 10

  • Trong quá khứ, giữa VN với Trung-quốc đã xẩy ra những trận thủy chiến nào? Kết quả ra sao? ( Người hỏi nguyên là giáo sư sử Đông-Á ).

Gs Trần Đại Sỹ:

  • Thưa Ngài trong lịch sử 5,000 năm của Hoa-Việt, chiến tranh liên miên. Về bộ chiến, kị chiến thì cả hai bên khi thắng khi bại.

Duy thủy chiến, bao giờ Việt cũng thắng.

Cử tọa hỏi câu hỏi 11

  • Xin cho biết những trận nào?

Gs Trần Đại Sỹ:

  • Trận cổ nhất vào năm 42 sau Tây-lịch. Chiến địa xẩy ra ngoài biển Đông. Đô đốc Trung-quốc là Đoàn Chí. Đô đốc Việt là Trần Quốc, một nữ tướng.( Cử tọa ồ lên ). Kết quả hạm đội Trung-quốc bị đánh chìm hết. Đoàn Chí bị giết.
  • Hồi đó người Việt theo chế độ mẫu hệ ư?
  • Thưa không. Nhưng vị Hoàng đế cai trị là một phụ nữ. Trong suốt năm nghìn năm lịch sử, đời nào VN cũng có những nữ tướng kiệt hiệt.
  • Hiện có còn chứng tích nào về vị nữ Đô Ðốc này không?
  • Nếu Ngài du lịch VN, xin tới Hà-nội, thuê xe, bảo tài xế đưa đến làng Hoàng-xá, xã Kiêu-kỵ, huyện Gia-lâm là nơi có đền thờ bà. Tôi xin chiếu video về đền thờ nàỵ ( chiếu video 5 phút ).
  • Thưa Ngài trận thứ nhì do Vua Ngô ( 938 ), trận thứ ba do vua Lê ( 981 ), trận thứ tư do Hưng Đạo vương ( 1288 ). Cả ba trận sau đều diễn ra trên sông Bạch đằng, Trung-quốc đều bị bại. Trận 1288 là trận khủng khiếp nhất, bên Trung-quốc do vua Mông-cổ là Hốt Tất Liệt ở ngôi. Kể từ đó cho đến năm 1974, mới có trận Hoàng-sa.

Hải chiến Hoàng Sa 19/01/1974: Hải Quân Đại Úy Trầm Kha Nguyễn Văn Đồng, tử sỹ 26 tuổi.

Hải Quân Đại Úy Trầm Kha Nguyễn Văn Đồng — Tử Sỹ 26 tuổi Hoàng Sa 19/01/1974.


Khi Thanh Bình Trở Lại

Có một sớm tôi mơ thanh bình trở lại,
Trên môi người tình bừng giọt nắng reo vui,
Trong mắt mẹ rỡ ràng đồng lúa mới,
Trĩu hạt vàng óng ánh dưới ban mai.

Tôi sẽ rút phăng gươm chém cổ chai rượu mạnh.
Mời bạn bè say uống mềm môi.
Tôi sẽ đốt những cánh đồng rơm khô đã ải,
Cháy bừng bừng trên khắp cõi miền Nam.
Mời mọi người, mời tất cả anh em,
Cùng hít thở khói quê hương ngào ngạt.
Trước khi xuôi chuyến tàu Nam Bắc,
Đem thanh bình tặng quyến thuộc ngoài kia.

Tôi sẽ chẳng mang theo hành lý,
Ngoài những bài thơ ca tụng tình người.
Cho bà mẹ khóc đón con trở lại
Cho vợ hiền tức tưởi đợi chồng về.
Cho cô gái ngỡ ngàng vui duyên mới,
Cho trẻ thơ mừng rỡ được gần cha.
Tôi sẽ đến từng nhà chung vui ngày mở hội
Tặng bà con những cái nắm tay
Nụ cười thân ái.

Cùng mọi người ca hát vui say
Khúc hoan ca ngây ngất
Lời tự tình Việt Nam thống nhất
Đang dạt dào trong núi đá rừng cây.

Tôi sẽ nhận người làm anh em
Đi xây những cây cầu đã sập
Những ngôi nhà đổ nát
Những thành quách điêu tàn.

Tôi sẽ mời anh tắm lại dòng sông
Không còn máu, không còn biên thùy ngăn cách.
Trước khi cùng anh đi thăm những người đã chết
Thắp cho nhau nén hương lòng muôn đời không tắt
Tưởng nhớ bạn bè xấu số vội ra đi.

Sau hết từ giã mọi người
Tôi về chung vui với người tình nhỏ
Trong mái lá đơn sơ
Cùng người yêu mở một mùa hội mới
Uống chén rượu đào đón xuân trở lại
Tôi sẽ kể em nghe
Suốt quãng đời tôi mang tuổi chiến binh.

Trầm Kha.

Hải Quân Đại Úy Trầm Kha Nguyễn Văn Đồng — Tử Sỹ 26 tuổi Hoàng Sa 19/01/1974.

Hải Quân Đại Úy Trầm Kha Nguyễn Văn Đồng, tử sỹ 26 tuổi.
Hải chiến Hoàng Sa 19/01/1974. Hải Quân Đại Úy Trầm Kha Nguyễn Văn Đồng, tử sỹ 26 tuổi.

“Hồi Kí” của cụ Nguyễn Hiến Lê, Văn Nghệ xuất bản, California, U.S.A, 1990.

Tình hình xã hội Miền Nam Việt Nam sau 5 ( năm ) năm bị ngụy+ sản cai trị: 1975-1980.

Chương XXXI KẾT QUẢ SAU 5 NĂM; trang 89 – 117

[
Chú thích của hoangkyblog:

Sau 5 ( năm ) sống với Việt+, đến 1980, cụ nhận xét về chúng, và những thất bại của chúng.

Những vị ai đã sống qua giai đoạn này, chắc tìm lại được một phần của mình trong đó. Đối với riêng chúng tôi: 40 năm sau, nó chỉ tệ hại hơn sau 5 năm của cụ. Đọc chương này của cụ, và theo dõi tình hình Việt Nam bây giờ, chúng tôi có cảm giác như là mình đang đi ngược lại lại thời gian 1980: nhưng phải nhân những cái xấu xa của Việt+ lên mười lần!

Cũng xin được chú thích thêm, trên http://www.talawas.org/ xưa có một bài viết của một vị độc giả ở Việt Nam cho biết, tại Việt Nam, ngụy+ sản cho “xuất bản” bộ hồi ký này đến 6 ( sáu ) lần: không lần nào chính xác so với bản của Văn Nghệ — chúng sửa lại theo ý chúng!
]

THẤT BẠI TRONG HÒA BÌNH

Mấy tháng đầu sau ngày 30-4-75, các bạn kháng chiến, già cũng như trẻ, nhất là trẻ, đều có tâm lí chung là hăm hở hưởng thụ sau mấy chục năm gian khổ sống chui, sống nhủi trong rừng, trong bụi, dưới hố dưới hầm. Đành rằng phải bắt tay ngay vào việc kiến thiết, nhưng đã có đường lối sẵn rồi, có kinh nghiệm hai chục năm ở Bắc thì không có gì khó; vả lại đã thắng được Mĩ, thành cường quốc thứ ba trên thế giới, sau Nga và Trung hoa thì có việc gì mà làm không được, chỉ trong 5 năm sẽ tiến bộ, hai chục năm sẽ đuổi kịp Nhật bản về kinh tế.

Muốn kiến thiết thì trước hết phải san phẳng chế độ cũ đã, không để lại một dấu viết nào cả. Phải đuổi hết các nhân viên cũ, để anh em cách mạng chia nhau tất cả các chức vụ lớn nhỏ. Phải diệt bọn tư bản, chiếm nhà cửa, tài sản như núi của họ, chia nhau mỗi người một chút. “Đó là quyền của mình mà!”

Tóm lại, ai cũng “hồ hởi”, tin tưởng. Chỉ có thủ tướng Phạm văn Đồng là tỏ vẻ ưu tư một chút. Trong một cuộc hội hợp ở Sài Gòn, ông bảo các đồng chí: “Nous avons gagné la guerre, il ne faut pas perdre la paix” ( Chúng ta đã thắng trong chiến tranh, đừng để thất bại trong hòa bình ). Ông thấy rằng thắng được địch rồi mới là khởi sự bắt tay vào việc, chưa thể nghỉ ngơi, hưởng thụ được; mà công việc kiến thiết trong thời bình còn khó khăn gấp bội công việc diệt địch. Thời chiến hễ nung được lòng yêu nước của quốc dân rồi, giữ cho lòng đó đừng giảm, quốc dân kiên trì chịu đưng được tới phút chót thì không còn vấn đề gì nữa: thiếu cái gì đã có Nga, Trung hoa cung cấp cho; trái lại trong thời bình mới phải đương đầu với nhiều vấn đề nội bộ, ngoại giao, kinh tế, nhất là kinh tế. Nước ta nghèo, thiếu vốn đầu tư, thiếu kĩ thuật gia, khó phát triển kinh tế mau được. Thất bại về kinh tế thì sự nghiệp của cách mạng sụp đổ.

Bây giờ 5 năm sau ngày 30-4-75, hết kế hoạch ngũ niên đầu tiên rồi, chúng ta mới thấy cơ hồ chẳng tiến bộ về một phương diện nào hết mà còn thụt lùi nữa, và ai lạc quan tới mấy cũng phải nhận chúng ta đã bỏ phí 5 năm, và không biết phải mấy năm nữa mới bắt lại được thời gian đã mất đó. Trong khi ấy thì thế giới cứ vùn vụt tiến tới.

— Thất bại lớn nhất, theo tôi, là “KHÔNG ĐOÀN KẾT ĐƯỢC QUỐC DÂN”. Tháng 5-1975, có ít nhất 90% người miền Nam hướng về miền Bắc, mang ơn miền Bắc đã đuổi được Mĩ đi, lập lại hòa bình, và ai cũng có thiện chí tận lực làm việc để xây dựng lại quốc gia. Nhưng chỉ sáu bảy tháng sau, cuối 1975 đã có đa số người Nam chán chế độ ngoài Bắc, chán đồng bào Bắc. Tôi nhớ như ở phần trên tôi đã nói năm 1976, trong một cuộc hội nghị ở Sài Gòn, bàn về vấn đề thống nhất quốc gia, một học giả lão thành miền Bắc, ông Đào Duy Anh ( đã có hồi sống ở miền Nam nhiều năm, có nhiều bạn thân ở Nam ) khi được mời phát biểu ý kiến, chỉ nói mỗi một câu đại ý là thống nhất cái gì cũng dễ; quan trọng nhất là phải thống nhất nhân tâm đã. Cả hội trường sửng sốt và làm thinh.

Ông Anh đã nhận xét đúng và dám nói. Quả thực là lúc đó có sự chia rẽ nặng giữa người Nam và người Bắc, Nam đã không muốn thống nhất với Bắc rồi. Từ đó, tinh thần chia rẽ cứ mỗi ngày mỗi tăng, năm nay ( 1980 ) có thể nói 90% người miền Nam hay hơn nữa, muốn tách khỏi miền Bắc.

Có nhiều nguyên nhân.

Nguyên nhân chính theo tôi là người miền Bắc vơ đũa cả nắm, coi người Nam là “ngụy” hết, trụy lạc, bị nhiễm độc nặng của Mĩ. Ngay hạng trí thức miền Bắc như ông Đào Duy Anh cũng có thành kiến rằng dân Sài Gòn hư hỏng quá rồi. Họ chỉ nhìn bề ngoài, chỉ thấy một số thanh niên híp pi, lêu bêu ở ngoài đường; tôi phải giảng cho họ hiểu rằng đó chỉ là thiểu số, chứ đại đa số người trong này ghét Mĩ, ghét văn minh Mĩ, có thể nói gia đình nào cũng có người có cảm tình với kháng chiến, giúp kháng chiến cách này hay cách khác, nếu không vậy thì làm sao kháng chiến thành công được. Chỉ nội một việc biết người nào đó là kháng chiến mà không tố cáo cũng đủ có công với kháng chiến, chứ đừng nói là còn che chở, giúp tiền bạc, tiếp tay cho nữa. Chỉ trừ một số phản quốc, giúp tiền bạc, theo Mĩ, Thiệu triệt để vì quyền lợi, còn thì không có gia đình nào trong Nam là ngụy cả. Một số người yêu nước, có tư cách, mới đầu gia nhập kháng chiến, sau vì lập trường chính trị, phải rời hàng ngũ, về thành, mà không ưa Pháp, Mĩ, hạng đó không nên coi người ta là ngụy. Bọn thanh niên hư hỏng chỉ ở Sài Gòn mới có nhiều, mà tỉ số không cao so với những thanh niên đứng đắn.

Người Bắc coi người Nam là ngụy, đối xử với người Nam như thực dân da trắng đối với dân “bản xứ”, tự cao tự đại, tự cho rằng về điểm nào cũng giỏi hơn người Nam, đã thắng được Mĩ thì cái gì cũng làm được. Chỉ cho họ chỗ sai lầm trong công việc thì họ bịt miệng người ta bằng câu: “Tôi là kháng chiến, anh là ngụy thì tôi mới có lí, anh đừng nói nữa”.

Chẳng bao lâu người Nam thấy đa số những kẻ tự xưng là kháng chiến, cách mạng đó, được Hồ chủ tịch dạy dỗ trong mấy chục năm đó, chẳng những dốt về văn hóa, kĩ thuật — điều này không có gì đáng chê, vì chiến tranh, họ không được học — thèm khát hưởng lạc, ăn cắp, hối lộ, nói xấu lẫn nhau, chài bẩy nhau… Từ đó người Nam chẳng những có tâm trạng khinh kháng chiến mà còn tự hào mình là ngụy nữa, vì ngụy có tư cách hơn kháng chiến. Và người ta đâm ra thất vọng khi thấy chân diện mục của một số anh em cách mạng đó, thấy vài nét của xã hội miền Bắc: bạn bè, hàng xóm tố cáo lẫn nhau, con cái không dám nhận cha mẹ, học trò cấp II đêm tới đón đường cô giáo để bóp vú…

Thì ra: “Nhìn xa ngỡ tượng tô vàng…”

Ngay giữa các đồng chí cũng không có tinh thần đoàn kết: địa phương nào chỉ làm lợi cho địa phương đó, không nghĩ tới quốc gia; cơ quan nào cũng chỉ làm lợi cho cơ quan mình mà không giúp đỡ cho cơ quan bạn; ai nấy chỉ lo cho bản thân mình thôi mà không nghĩ tới đoàn thể. Một ông bạn tôi ở Hà nội vào Sài Gòn để đòi số tiền vài cơ quan khác thiếu của cơ quan ông. Tôi ngạc nhiên hỏi: “Đâu phải là xí nghiệp tư mà giữ tiền lại để làm lợi cho mình. Điều là của công hết mà, hễ thu được tiền thì tự nhiên họ trả lại cho cơ quan anh, sao phải vào tận đây để đòi?” Anh bạn ấy đáp: “Nếu bạn nghĩ như anh thì còn nói gì?”.

Trong mỗi cơ quan ở Sài Gòn cũng có sự chia rẽ. Cùng là công nhân viên cả, mà bọn ở Bắc vô không ưa bọn Liên khu 5; hai hạng đó đều khinh bọn ở bưng trong Nam về; bọn này lại không chơi với bọn trước kia tập kết ra Bắc, nay trở vô Nam; bọn “nằm vùng” cũng không ưa bọn tập kết về đó; bị khinh nhất là bọn ngụy được tạm dùng lại, mà bọn này thạo việc hơn hết. Chính vì thiếu đoàn kết cho nên trong cuộc hội họp nào người ta cũng hô hào “Đoàn kết, đại đoàn kết”. Còn ở trong phòng họp thì ai cũng hoan hô tinh thần đoàn kết, ra khỏi phòng rồi thì đoàn kết hết. Người ta chỉ đoàn kết với nhau vì quyền lợi thôi; do đó mà có tinh thần bè phái, gia đình trị, và ở Bắc có câu này: Nhất thân, nhì thế, tam quyền, tứ chế.

Hễ thân với nhau thì giúp đỡ nhau, công việc gì cũng dễ dàng chứ cứ áp dụng đúng qui chế thì khó khăn nhất, chậm trễ nhất; người ta lè phè, tà tà, không làm cho mình đâu, nhắc nhở hoài chỉ làm cho người ta thêm ghét. Còn đâu là tinh thần tập thể nữa?

— Điểm thứ nhì làm cho chúng ta thất vọng là xã hội còn BẤT CÔNG hơn thời trước nhiều.

Marx và Lénine muốn tạo một xã hội không có giai cấp, công bằng, bình đẳng. Nhưng Staline cho sự bình đẳng là “không xứng” ( indique ) với một xã hội theo chủ nghĩa xã hội ( 1 ), và ở Nga, theo nhà bác học Sakharov ( trong một bài báo đã dẫn ) thì năm 1972 xã hội đã bất bình đẳng mà còn bất công. Không còn tình trạng tư bản bốc lột thợ thuyền, nhưng giai cấp lãnh đạo được hưởng rất nhiều quyền lợi còn giai cấp công nhân thì sống thiếu thốn. Cây quạt lương bổng ( eventail des salairs ) vẫn mở rộng, có phần còn hơn ở các nước tư bản; nói cách khác, lương giữa một viên giám đốc với một thợ không chuyên môn còn cách biệt nhau rất xa, hơn ở phương Tây. Kravchenko trong sách đã dẫn cũng phàn nàn rằng các đồng chí “bự” ( grosses légumes ) sống như ông hoàng, có phòng ăn riêng, thức ăn riêng, tiệm mua dược phẩm riêng, thợ hớt tóc riêng, nhà thương riêng, cầu tiêu riêng… cái gì cũng riêng, và ông ta chua xót thấy cách bóc lột thời ông bất lương hơn cách thời Nga hoàng ( trang 525, 105 ).

Ở nước mình cũng như Nga, không còn cái tệ tư bản bốc lột thợ thuyền; chế độ lương của mình còn hơn Nga là không có sự cách biệt rất xa giữa cấp cao và cấp thấp: công nhân viên mới vô được khoảng 40 đồng một tháng, kĩ sư mới ra trường được khoảng 55 đồng, giám đốc khoảng 150 đồng, bộ trưởng 200 đồng; nhưng các cán bộ cao cấp cũng được hưởng rất nhiều quyền lợi, tha hồ mua thức ăn, đồ dùng đủ thứ với giá chính thức; nghe nói có trường hợp vợ họ mua về bán chợ đen; và một người Nga hay Đức đã phải bảo lương những cán bộ tuy chỉ có 200 đồng mà sự thực họ được hưởng ít nhất là 2.000 đồng. Thủ tướng Phạm văn Đồng có lần đề nghị sửa đổi chế độ lương bổng: tăng lương cho những cấp trên, nhưng sự phân phối nhu yếu phẩm thì đồng đều; đề nghị đó bị đảng bác bỏ.

Có người nói một số “ông lớn” đi đâu cũng có người hầu xách bình nước sâm Cao li để ông lớn uống thay trà; một ông nọ luôn luôn có một bác sĩ ở bên và một thiếu nữ quạt hầu vì ông không chịu được quạt máy. Tôi không biết những tin đó đúng hay không, chỉ biết những tin đó do “anh em cách mạng” đưa ra cả.

Một ông bạn tôi bảo có vô nhà thương mới thấy có cả chục ( sic ) giai cấp bệnh nhân, tùy giai cấp mà được ở phòng nào, khám bệnh ra sao, trị bệnh ra sao, cấp thứ thuốc nào v.v…

Người chết cũng phân biệt giai cấp khi đăng cáo phó: cán bộ thường thì được mấy phân trên cột báo, cán bộ bự thì được mười mấy phân; lời cáo phó cũng theo những tiêu chuẩn riêng. Đúng là đường lối Staline.

Sài Gòn được giải phóng vài năm thì ta thấy xuất hiện ngay một hạng giàu sang mới nổi, thay thế bọn giàu sang thời Thiệu, và cũng thích những xa xí phẩm áo hàng thêu, hột xoàn, máy điều hòa không khí v.v… ) của thời Thiệu. Tiền đâu mà họ mua những thứ đó nhỉ?

Sự bất công chướng nhất, tàn nhẫn nhất là lương công nhân viên từ 1975 cứ đứng yên trong khi sự phân phối nhu yếu phẩm giảm đi gần hết, chỉ còn gạo, bo bo là tạm đủ, nhất là trong khi mãi lực của đồng bạc năm 1980 chỉ còn bằng 1/10 năm 1975; thành thử lương một công nhân viên chỉ đủ để mua củi chụm, lương một bác sĩ mới ra trường chỉ đủ để mua rau muống ăn. Khắp thế giới không đâu có chế độ lương bổng kì cục như vậy ( 2 ). Người nào cũng phải bán đồ đi mà xài, nhờ cha mẹ giúp đỡ, nếu không thì phải xoay xở mọi cách, làm sao sống được thì làm, chính phủ không biết tới. Một cán bộ ở Hà nội đã phàn nàn: “Người ta có rất nhiều quyền hành mà không có một chút tinh thần trách nhiệm nào cả. Thật lạ lùng!” Kravchenko ( trang 185 ) nói chính phủ Nga bắt dân đói để biết phép chính phủ mà phải răm rắp tuân lệnh. Ở nước ta không đến nỗi như vậy, có áp dụng chính sách đó thì chỉ áp dụng cho những kẻ thù của chết độ thôi tức bọn ngụy quân ngụy quyền còn ở trong một số trại cải tạo.

— Không ai có trách nhiệm mà tinh thần bè phái quá nặng, nên KHÔNG CÓ KỈ LUẬT, dưới không tuân trên, loạn.

Chương trên tôi đã nói tới cái tệ mỗi tỉnh là một tiểu quốc, địa phương tự do tới mức không tuân lệnh trung ương ( ngay xã cũng không tuân lệnh tỉnh huyện ), lấy lẽ rằng chỉ địa phương mới hiểu tình trạng của địa phương, cấp trên không nên xen vào; cái tệ nhân viên được lệnh đi công tác mà không đi, nằm ỳ ở nhà, một tuần sau trở lại sở, trả sự vụ lệnh mà không bị khiển trách; cái tệ nhân viên muốn bỏ sở về giờ nào thì về lấy cớ là phải kiếm gạo, chủ nhiệm đành làm thinh, chứ không biết đáp sao.

Tôi kể thêm một trường hợp nữa. Ông giám đốc một cơ quan nọ đến tuổi về hưu, bảo người giúp việc: “Tôi sẽ không về, về thì mất hết quyền lợi: xe hơi, ‘bìa’ ( sổ đặc biệt để mua nhu yếu phẩm ), nhà ở v.v…, mà còn bị xã ấp nó ăn hiếp, hoạch họe cái này, cái khác; không, tôi không về”. Một ông giám đốc mà sợ công an ấp vì công an có quyền bắt ai thì bắt, giam ai thì giam. Một viên công an bảo: “Tôi làm việc bốn năm năm rồi, mà bây giờ mới biết quyền hạn của tôi, từ trước tôi muốn làm gì thì làm”.

Vì mất kỉ luật, cho nên thanh niên trốn nghĩa vụ quân sự: ở miền Nam trốn tới 90%, có nơi cả 100% mà vẫn sống yên ổn. Bắt được họ, đưa họ ra trận, họ lại trốn nữa. Không thể giam hoài họ được, gạo đâu mà nuôi? Họ sống yên ổn ngay ở làng vì chỉ cần đút lót cho công an là êm. Còn nạn đào ngũ thì toàn quốc tới 25%. Trước kia người ta hi sinh để giành độc lập; bây giờ độc lập rồi lại đánh nhau với nước anh em, người ta không hăng hái nữa.

Nghe nói ở một tỉnh nọ, viên giám đốc sở tài chánh kiêm giám đốc ngân hàng ( ? ) ôm 60 lượng vàng cùng với 30 viên công an xuống một chiếc tàu của chính phủ, mang theo đầy đủ khí giới ( và không biết bao nhiêu lượng vàng nữa ) để vượt biên. Tin đó chưa lấy gì làm chắc nhưng chuyện công an — cây cột chống đỡ chế độ — ôm vàng vượt biên thì mấy năm nay nghe thường quá rồi.

Tinh thần vô kỉ luật đó, không biết một phần có phải do chính sách giáo dục trẻ em không. Người ta cấm đánh trẻ — điều đó có thể hiểu được — cấm nghiêm khắc với trẻ, chúng nghỉ học thì lại nhà mời chúng đi học; chúng làm biếng thì không bị phạt mà cô giáo bị trách là dạy dở. Kì tựu trường có nơi còn tổ chức múa lân đốt pháo để dụ trẻ em đi học nữa. Cô giáo nào mời được ít trẻ thì bị rầy. Riết rồi cô giáo ngán dạy quá, cứ tự ý nghỉ bừa, hiệu trưởng phải tới nhà năn nỉ, nếu không thì lỗi ở hiệu trưởng chứ không phải ở cô giáo. Và người ta ngán luôn cả nghề sư phạm: dốt hoặc muốn tránh nghĩa vụ quân sự mới phải thi vô sư phạm.

Kỉ luật như vậy, trẻ em càng được thể lười biếng, sức học rất kém, mà tính ngỗ nghịch ( bóp vú cô giáo như trên đã nói ) thì quá sức tưởng tượng. Một số can bộ già ở Bắc vô nhận rằng trẻ em trong này ngoan ngoãn, lễ phép. Nhưng tôi sợ rằng ít năm nữa, chúng đuổi kịp bạn chúng ở Bắc mất.

— Sự thất bại hiển nhiên nhất của chế độ là sự SUY SỤP CỦA KINH TẾ mà tôi đã trình bày sơ lược ở trên. Hậu quả là Việt nam trước thế chiến tự hào là “tiền rừng bạc bể”, có những đồng lúa, đồn điền cao su mênh mông ở miền Nam, những mỏ than, mỏ phốt phát phong phú ở miền Bắc mà bây giờ thành một trong vài nước nghèo nhất thế giới.

Từ ngày 30-4-75, do những đồng bào ở Bắc vào, chúng ta ở Nam mới lần lần biết cảnh điêu đứng của dân tình ngoài đó sau hai chục năm sống dưới chế độ mới. Từ trên xuống dưới ai cũng phải ăn độn có khi 60-70% ( 3 ); có hồi gạo quí tới nỗi người ta cất vào trong những cái thố, cái liễn, trân trọng như nhân sâm, chỉ khi nào đau ốm mới lấy ra một nhúm để nấu cháo; ngày tết mà có đủ gạo nấu cơm cúng ôm bà là mừng lắm; khi nào được ăn một bữa cơm không độn với nước mắm thôi thì coi như được dự một bữa tiệc. Nước mắm rất hiếm, có người ở Nghệ an hay Hà tĩnh mấy năm không có nước mắm ăn, gặp người trong Nam ra đem theo nước mắm, xin một vài muỗng rồi cầm nuốt ực ngay hết, không đợi đem về nhà.

Bát ăn mỗi người mỗi năm chỉ được một cái, hễ vỡ thì phải ăn bằng sọ dừa. Vải mỗi năm chỉ được phát một hai thước đủ để vá áo. ( Ở miền Nam năm 1980, có nơi mỗi người chỉ được 6 tấc. )

Nhiều người vào Sài Gòn thăm bà con, khi ra vơ vét đủ thứ, từ cây đinh, khúc dây chì, lon sữa bò, ve chai… đem ra, vì ở ngoài đó thường cần dùng tới mà không kiếm đâu ra. Họ cho miền Nam này là thiên đường.

Nhưng một người Ba lan trong Ủy ban kiểm soát quốc tế năm 1975 bảo chỉ trong 5 năm, miền Nam sẽ “đuổi kịp miền Bắc”, nghĩa là nghèo như miền Bắc. Lời đó đúng, rất sáng suốt. Nếu không nhờ mấy trăm ngàn kiều bào ở ngoại quốc gởi tiền, thuốc men, thực phẩm, quần áo… về giúp bà con ở đây thì chúng ta hiện nay cũng điêu đứng như anh em miền Bắc rồi.

Dân miền Nam từ xưa chưa bao giờ biết đói, phải ăn độn thì năm 1979 đã phải ăn độn 70-80%, có những gia đình phải ăn bữa cơm bữa cháo, có cô giáo và học sinh đói quá, tới lớp té xỉu.

Nhà nào cũng bán đồ cũ để ăn; nhiều giáo viên nhà đã trống rỗng, không còn bàn ghế nữa, ăn ngủ trên sàn. Ai cũng chỉ lo sao có cái gì nuốt cho đầy bao tử, chứ không dám nghĩ tới miếng ngon. Tết Canh Thân vừa rồi, ở Long xuyên, nhà một giáo viên hồi hưu, trên bàn thờ ông bà chỉ bày một đĩa có mấy chiếc bánh phồng và bánh gai, không có một đòn bánh tét, một quả dưa hấu.

Khổ nhất là bọn đi kinh tế mới, thất bại, tiêu tan hết vốn liếng, về Sài Gòn, sống cảnh màn trời chiếu đất, ăn xin, moi các đống rác hôi thối, lượm một miếng giấy vụn, một túi ni lông, một miếng sắc rỉ, một quai dép mủ… để bán cho “ve chai”. Trông thấy đống túi ni lông được rửa qua loa trong nước dơ rồi phơi ở lề đường để bán cho tiểu thương đựng hàng, tôi ghê tởm quá.

Ở Bắc tình hình hiện nay điêu đứng hơn những năm kháng Mĩ. Nghe nói ngoài đó đã xuất hiện câu ca dao ( 4 ):

Anh Đồng, anh Duẩn, anh Trinh,
Ba anh có biết dân tình cho không?
Rau muống nửa bó một đồng
Con ăn bố nhịn, đau lòng thằng dân.

Ở Nam có nơi hai tháng nhân viên chưa được lãnh lương, chắc nhiều gia đình không đủ tiền mua rau muống cho con nữa. Một bạn tôi phải ăn nước mắm kho khô.

Không có tiền mua rau thì làm gì có tiền mua thịt. Muốn lâu lâu có thịt thì phải nuôi heo, gà, cho nên nhiều cơ quan ngay khi mới thành lập đã nghĩ ngay đến việc hùn tiền ( hay lấy trong quĩ? ) mua heo con, phân công nhau nuôi tại khu ở tập thể, như vậy đến lễ, tết mới có thịt liên hoan. Người ta thèm thịt quá, cho nên liên hoan lu bù, bất kì một dịp gì cũng liên hoan được: một bạn đồng nghiệp được ban khen, ngày tựu trường, bãi trường, họp bạn để học tập, ban hành hiến pháp mới, làm xong một công tác, mỗi ngày lễ, tết… mỗi năm liên hoan cả chục lần là ít.

Cơ quan nào cũng có đủ nhà bếp, chén dĩa, xoong chảo, người làm bếp ( lựa trong nhân viên ) để nấu ăn làm tiệc… Và khi ngồi vào bàn tiệc thì chẳng ai mời ai, đợi ai, mạnh ai nấy gắp, ăn cho thật mau ( tới nỗi có người bảo cứ nuốt trước rồi sẽ nhai sau! ), tệ gấp 10 thói ăn uống ở đình làng mà Ngô Tất Tố đã mạt sát trong cuốn “Việc làng”.

Nghèo thì sinh ra bẩn. Ngay trong khu tập thể một trường Đại học Hà nội, phòng một giáo sư ở Pháp về cũng dơ dáy, từ sàn gạch đến tường đều đầy vết bẩn. Hỏi như vậy làm sao chịu được, ông ta nhún vai đáp: “Lâu rồi quen đi”. Không nên trách ông ta. Dù muốn sống sạch cũng không thể được: đâu có vôi để quét tường? Đâu có xà bông để rửa sàn? Đâu có giẻ để lau? Nước thì có nhưng phải xuống dưới sân để hứng rồi xách lên 5-6 chục bực thang, ai mà không ngại?

Phải, lâu rồi thì quen đi. Nếu tình trạng không thay đổi thì chỉ mươi năm nữa, toàn dân sẽ quen đi, không thấy gì là bẩn nữa. Hiện nay ở trong Nam đã nhiều nhà để bụi đóng đầy bàn ghế — mà trước kia họ sống rất sạch — mạng nhện giăng đầy trần, còn dân thị xã thì đã quen với cảnh bốn năm người cùi nằm trên đường đưa tới chợ, lăn ở giữa chợ để xin ăn.

Câu “nghèo cho sạch, rách cho thơm” của ông cha, chúng ta không giữ được vì chúng ta nghèo tới mức không thể ở sạch được.

❀❀❀

XÃ HỘI SA ĐỌA

Điều đáng ngại nhất là sa đọa về tinh thần, tới mất nhân phẩm.

— Ở tỉnh nào cũng có một số cán bộ THAM NHŨNG cấu kết với nhau thành một tổ chức ăn đút ăn lót một cách trắng trợn, không cần phải lén lút. Có giá biểu đàng hoàng: xin vô hộ khẩu một thành phố lớn thì bao nhiêu tiền, một thị xã nhỏ thì bao nhiêu, một ấp thì bao nhiêu. Muốn mua một vé máy bay, vé xe lửa thì bao nhiêu. Muốn được một chân công nhân viên, phải nộp bao nhiêu… Cái tệ đó còn lớn hơn tất cả các thời trước.

Nếu một cán bộ nào bị dân tố cáo nhiều quá thì người ta cũng điều tra, đưa cán bộ đó tới một cơ quan khác ( có khi còn dễ kiếm ăn hơn cơ quan cũ ), đem người khác ( cũng tham nhũng nữa ) lại thay. Ít tháng sau dân chúng nguôi ngoai rồi, người ta lại đưa kẻ có tội về chỗ cũ. Người ta bênh vực nhau ( cũng là đảng viên cả mà ) vì ăn chịu với nhau rồi. Dân thấy vậy, chán, không phí sức tố cáo nữa. Có người còn bảo: “Chống chúng làm gì? Nên khuyến khích chúng sa đọa thêm chứ để chúng mau sụp đổ”.

Có những ông trưởng ti uống mỗi ngày một ve Whisky ( tôi không biết giá mấy trăm đồng ), hút hai ba gói thuốc thơm 555 ( 30 đồng một gói ). Bọn đàn em của họ cũng hút thuốc thơm, điểm tâm một tô phở 6 đồng, một li cà phê sữa 4 đồng, sáng nào như sáng nấy mà lương chỉ có 60-70 đồng một tháng.

— Như vậy thì tất phải có những vụ ăn cắp của công ( Kho một trung tâm điện lực nọ cứ bốn năm tháng lại mất trộm một lần mà không tra ra thủ phạm; rất nhiều bồn xăng bị rút cả ngàn lít xăng rồi thay bằng nước… ), thụt két, ôm vàng trong ngân hàng đề vượt biên, có khi lại tạo ra những vụ kho bị cướp, bị cháy v.v… Y tá ăn bớt thuốc của bệnh nhân rồi tố cáo lẫn nhau, giám đốc biết mà không làm gì được. Lớn ăn cắp lớn, nhỏ ăn cắp nhỏ. Ăn cắp nhỏ thì chỉ bị đuổi chớ không bị tội, vì “họ nghèo nên phải ăn cắp”, mà nhốt khám họ thì chỉ tốn gạo nuôi. Vì vậy chúng càng hoành hành, ăn cắp, ăn cướp giữa chợ, cảnh sát làm lơ, còn dân chúng thì không dám la, sợ bọn chúng hành hung. Ăn cắp lớn, không thể im được thì phải điều tra, bắt giam ít lâu, rồi nhân một lễ lớn nào đó, ân xá; không xin ân xá cho họ được thì đồng đảng tổ chức cho vượt ngục rồi cùng với gia đình vượt biên yên ồn.

— Nạn “phe phẩy” ( buôn lậu, làm chợ đen ) còn bành trướng hơn nữa. Có thể nói một phần ba dân miền Nam ( ở Bắc chắc ít hơn ) làm nghề đó. Họ móc nối với những nhân viên kiểm soát, với giới xe đò; và cứ năm chuyến bị tịch thu một chuyến thì họ vẫn còn sống được. Chỉ có nghề đó là đủ ăn, đôi khi phè phỡn nữa, còn làm nghề gì khác cũng sạt nghiệp. Bọn “lơ xe” bán vé cho bọn buôn lậu đó, giấu hàng cho họ, kiếm mỗi ngày được 200 đồng, bằng lương tháng một bộ trưởng. Dĩ nhiên họ cũng phải chia một phần cho công an, kiếm soát viên. Họ hút toàn thuốc thơm, uống toàn cà phê fin ( filtre: lọc ), ăn một tô phở 6 đồng ( giá 1980 ), bận toàn đồ Mĩ. Người ta gọi họ là các “ông lơ”. Một đứa cháu của tôi học lớp 9, vào hạng tiên tiến, thấy họ sống sung sướng như vậy, muốn bỏ học để học làm lơ xe, cũng bắt đầu hút thuốc lá, uống cà phê rồi.

Ngoài Bắc không có gạo ăn mà miền Tây trong Nam làng nào cũng có cả chục lò — nghe nói có làng cả 100 lò — nấu rượu lậu để đưa lên Cao miên và tiêu thụ ngay trong miền. Người ta pha vào trong rượu một chất hóa học gì đó — thuốc trừ sâu — cho nồng độ của rượu cao; uống rất có hại.

Người ta nói đã có những vụ buôn lậu thuốc phiện; nếu có thì cũng nhỏ thôi, kém xa thời Mĩ, Thiệu. Nhưng đồ lậu như vải, thuốc thơm, thuốc tây — thì khoảng một năm nay lan tràn thị trường: tàu Thái lan đậu ngoài khơi, ghe tàu của mình từ bờ băng ra, đưa vàng ra đổi các thứ đó, cả đồng hồ điện tử từ Singapore hay Nhật bản nữa.

Lại thêm dọc biên giới Việt-Miên, Miên-Thái có nhiều đường buôn lậu từ Thái qua Miên rồi qua Việt. Không biết vàng Việt nam mỗi năm chạy ra nước ngoài bao nhiêu.

Có đồ buôn lậu thì luôn luôn có đồ giả. Bọn tàu Chợ lớn cái gì cũng làm giả được, từ rượu tới thuốc hút, dầu thơm… nhiều nhất là dược phẩm Tây phương, vì thứ này vừa hiếm vừa đắt. Một bác sĩ khuyên tôi đừng mua Ampicilline, B12, Vitamine C ( chích ), Syncortyl ở chợ trời. Chị hốt rác trong khu tôi ở một buổi sáng thấy trong một thùng rác một bọc lớn đầy ống Vitamine C để chích. Có tới 200 ống, mỗi ống 2cc, mà chỉ bán cho người ta có 6 đồng. Chỉ khổ dân quê. Thế nào cũng có y sĩ, y tá chích cho họ thứ đó và chém 5 hay 3 đồng một mũi.

Nạn cờ bạc không công khai như trước, nhưng nạn “sổ xố đuôi” thì công khai rồi; người ta bàn nhau nên đánh số nào, số nào ở ngay giữa chợ. Xưa mỗi tuần chỉ xổ số một lần, nay mỗi tuần bảy tám lần vì tỉnh nào cũng sổ xố, tự trị mà! Người dân chỉ ngong ngóng chờ giờ xổ số để dò số mà bỏ bê công việc. Nhiều người sạt nghiệp, nhưng cũng có nhiều người nhờ đó kiếm được miếng ăn; thầy giáo hồi hưu, đại úy đi cải tạo về, ngồi bán giấy số ở chợ, kiếm được mươi đồng một ngày.

Nạn cho vai nặng lãi cũng kinh khủng. Một cán bộ giáo dục, đảng viên, cho bạn trong sở vay 100 đồng, mỗi tuần trả lời 20 đồng, tính ra mỗi năm 1.000 đồng, vốn được nhân lên gấp 10. Bạn hàng ở chợ không chơi hụi tháng như xưa nữa, mà chơi hụi tuần, hụi ngày!

Nạn đĩ điếm đã hết đâu. Ngay cuối 1975, một cán bộ cách mạng đã bảo các bạn kháng chiến ở bưng về mắc bệnh hoa liễu hết rồi; một số cán bộ rất nghiêm trang đạo mạo — có kẻ ngoài 70 tuổi — từ Hà nội vào, năn nỉ các bạn trong Nam chỉ chỗ cho họ hưởng thú mê li đó một lần cho biết mùi. Chỉ khác là bây giờ người ta làm nghề đó một cách không lộ liễu quá như trước. Họ rất thích sách khiêu dâm, và loại sách này với loại truyện chưởng lan ra Bắc từ mấy năm nay rồi.

Tóm lại bao nhiêu cái xấu xa thời trước vẫn còn đủ mà có phần còn tởm hơn nữa.

❀❀❀

CON NGƯỜI MẤT NHÂN PHẨM

Trong một xã hội như vậy, con người dễ mất hết nhân phẩm, hóa ra đê tiện, tham lam, bất lương, nói láo, không còn tình người gì cả.

Năm 1975 đa số các cán bộ, công nhân viên ở Bắc vào thăm gia đình, họ hàng ở trong Nam, còn giữ chút thể diện “cách mạng”, bà con trong này tặng họ gì thì họ nhận, chứ không đòi; về sau họ không giữ kẽ nữa, tặng họ một thì họ xin hai, không tặng họ cũng đòi, khiến một ông bạn tôi bực mình, nhất định đóng cửa không tiếp một người bà con, bạn bè nào ở Bắc vào nữa.

Gởi họ mang ra giùm một cuốn sách tặng một người ở Hà nội, họ giữ lại 5-6 tháng, vợ chồng con cái, bạn bè coi cho hết lượt, sách nhàu rồi, họ mới đem lại cho người nhận sách; có khi họ lấy luôn, nhắc họ, họ bảo thất lạc, để kiếm. Mà ba người nhận được sách thì chỉ có một người cảm ơn tôi.

Một nhà văn đất Bắc làm cho một tờ báo nọ nhờ một nhà văn trong Nam viết bài, hứa sẽ trả bao nhiêu đó. Viết rồi, đưa họ, họ đăng, nhưng kí tên của họ rồi đưa cho nhà văn trong Nam nửa số tiền nhuận bút thôi, còn họ giữ lại một nửa. Vừa ăn cắp văn, vừa ăn chận tiền. Chưa bao giờ miền Nam có bọn cầm bút bẩn thỉu như vậy. Một bạn học giả của tôi ở Bắc khuyên tôi đừng giao bản thảo của tôi cho ai hết, không tin ai được cả, họ sẽ đạo văn.

Thời Pháp thuộc, không bao giờ nhân viên bưu chính ăn cắp đồ trong các bưu kiện. Thời Nguyễn văn Thiệu thỉnh thoảng có một vụ ăn cắp nhưng nhỏ thôi. Từ bốn năm nay ở khắp miền Nam, cứ 10 bưu kiện ở ngoại quốc gởi về thì có 6-7 bưu kiện bị ăn cắp hoặc đánh tráo vài ba món, thường là dược liệu và vải. Kêu nài thì nhân viên bưu chính bảo: “Không nhận thì thôi; có muốn khiếu nại thì cứ làm đơn đi”. Không ai buồn khiếu nại cả vì cả năm chưa có kết quả, mà nếu có thì số bồi thường không bõ. Cho nên chúng tha hồ ăn cắp, ăn cướp một cách trắng trợn. Trắng trợn nhất là chúng lấy trộm tất cả bưu kiện trong một kho, như ở Long xuyên năm 1981; nếu là kho lớn thì chúng đốt kho như ở Tân sơn nhất hai năm trước.

Nhơ nhớp nhất là vụ một cán bộ vào hàng phó giám đốc, mưu mô với vợ, làm bộ tổ chức vượt biên cho vợ chồng con cái một đứa cháu ruột, bác sĩ ở Sài Gòn, nhận mấy chục lượng vàng của cháu ( và sáu chục lượng vàng của gia đình bên vợ đứa cháu đó nữa vì họ cũng muốn vượt biên ), rồi lừa gạt người ta, tố cáo với công an bắt hết cả nhóm trên mười người khi họ ra Vũng tàu chờ ghe đưa ra khơi. Đa số cán bộ ở Nam đã tư bản hóa rồi, một xã hội chủ nghĩa xã hội mà như vậy thì chủ nghĩa đó chỉ còn cái tên thôi.

Sống dưới chế độ cộng sản; con người hóa ra có hai mặt như Sakharov đã nói: chỉ giữa người thân mới để lộ mặt thật, còn thì phải đeo mặt nạ; luôn luôn phải đề phòng bạn bè, láng giềng, có khi cả người trong nhà nữa. Người ta tính cứ 5 người thì có 1 người kiểm soát từng ngôn ngữ, hành vi của 4 người kia. Ngay một phó viện trưởng cũng làm việc điểm chỉ đó mà bạn trong viện không hay. Dĩ nhiên kẻ kiểm soát đó lại bị người khác kiểm soát lại. Ở Nga thời Staline như vậy, ở Bắc những năm 1954-1960 cũng gần như vậy; ở Nam đỡ hơn vì đa số người trong này không chịu làm thứ mật thám chìm đó.

Nạn làm tiền, tống tiền lan tràn khắp các ngành, cả trong ngành cứu nhân độ thế và ngành tống táng. Để cho bác sĩ ngụy đủ sống mà khỏi vượt biên, chính phủ năm 1980 cho phép họ ngoài giờ làm việc được khám thêm bệnh ở nhà và định cho họ số tiền thù lao là 1 đồng ở Sài Gòn, 0,8 đồng ở tỉnh ( 5 ). Nhưng ở Long xuyên bác sĩ nào cũng thu của bệnh nhân 10 đồng. Có kẻ ra một cái toa cần 9 thứ thuốc toàn thứ đắc tiền, trị đủ các bệnh: tim, phổi, gan, thận, bao tử… cho một bà lão suy nhược, rồi bảo lại mua của một tên buôn lậu đồng lõa với họ. Tính ra toa đó mua cho đủ thì mất cả triệu đồng cũ 1 ( 2.000 đồng mới ). Một số bác sĩ không làm tiền cách đó, không ra toa mà bắt bệnh nhân mỗi ngày lại để các ông ấy cho thuốc và chích cho, và phải trả các ông ấy từ 60 đồng đến 100 đồng mỗi lần. Năm 1981, tiền thù lao từ 10 đồng đã hạ xuống còn 5 đồng, có lẽ vì bác sĩ làm riêng khá đông, cạnh tranh nhau. Và tháng 7-1981 có lệnh không cho bác sĩ công làm tư tại nhà nữa, mà muốn làm tư thì lại dưỡng đường làm ngoài giờ làm việc. Chưa thấy ai theo.

Bệnh nhân lỡ mà chết thì bị hàng xăng tống tiền: quốc doanh định 45 đồng kể cả một bịch thuốc lá và 4 sthước vải thô, nhưng tang gia phải trả 400 đồng thì xăng mới được ghép lại kĩ, khỏi trống hổng trống hoảng với 8 cây đinh đóng hờ. Rồi tới nhà đòn cũng đầu cơ: hạ huyệt xong, phủ qua một lớp đất cho bằng mặt, muốn có cái mồ cho ra mồ thì phải đưa thêm vài trăm đồng nữa. Nếu đem thiêu mà cứ nộp đúng lệ thì xương ống xương hông bị ném riêng vào một chỗ, chứ không thiêu hết. Ai nỡ để cha mẹ mình què!

Tất cả chỉ tại cái lệ chính phủ định giá, định lương rẻ quá không cho dân đủ sống, dân phải xoay xở lấy, bóc lột lẫn nhau. Cổ kim chưa một xã hội nào phi lí như vậy. Vì biết mình phi lí nên có nơi chính quyền làm ngơ cho bác sĩ làm ăn, cho phép các giáo viên ngụy dạy thêm tại nhà.

Nói cho ngay, thời nào trong xã hội cũng có một số người lương thiện. Và ông Phạm văn Đồng đã nhận rằng thời này hạng đó thiệt thòi nhất. Tôi được biết một hai cán bộ trung cấp liêm khiết, chịu nghèo, nuôi heo thêm, chứ không tham nhũng. Gia đình họ phải ăn rau muống; quần áo thì vá đụp; có thể nói họ nghèo như các nông dân nghèo nhất thời xưa.

Tóm lại sau 5 năm chúng ta không thấy chút tiến bộ nào cả mà chỉ thấy sự chia rẽ trong xã hội, sự tan rã trong gia đình, sự sa đọa của con người, sự suy sụp của kinh tế.

Ông Hồ Chí Minh có lần nói: “Muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa thì phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Con người vẫn là quan trọng hơn cả. Có chế độ tốt, chính sách tốt mà không có con người tốt thì cũng hỏng hết. Ai cũng phải nhận rằng tinh thần, tư cách đại đa số cán bộ càng ngày càng sa sút, hủ hóa mà xã hội chủ nghĩa mỗi ngày một lùi xa. Ông Hồ đã thấy trước cái mòi suy vi đó khi ông thốt ra lời trên chăng?

❀❀❀

PHONG TRÀO VƯỢT BIÊN

Tôi không biết trước giờ giải phóng, từ Bến hải trở vào, trong số trên 20 triệu dân có bao nhiêu người vội vã di cư để trốn cộng sản. Dăm bảy ngàn hay vài chục ngàn? Người nào cũng có tâm trạng não nề: bỏ quê cha đất tổ, bỏ thân thích bạn bè, bỏ cả sản nghiệp ( có người mới mua được ngôi nhà vài ba chục triệu — hồi đó khoảng 100.000 đồng cũ một lượng vàng — chưa ở được 5-6 tháng đã phải bỏ lại ) để qua nước người ăn nhờ ở đậu, làm thứ công dân “da màu”, một thứ công dân hạng hai, và bắt đầu xây dựng lại từ đầu; như vậy mà ai vui cho được? Những người đi đó hoặc là quân nhân, công chức trong các chính phủ trước, hoặc đã có thời sống với cộng sản ở Bắc, sợ chế độ ngoài đó, đã di cư một lần nay lại di cư lần thứ hai. Những người ở lại, xét chung, đều sẵn sàng chấp nhận chế độ mới, dù chưa biết rõ nó ra sao; một số đông còn hăng hái tiếp tay với chính quyền mới để xây dựng một xã hội tốt đẹp cho tương lai nữa.

Nhưng chẳng bao lâu nhiều người thất vọng, qua năm 1976, đã có lác đác một số thanh niên vượt biên. Họ không có tổ chức, không chuẩn bị kĩ, lên miền cao nguyên ở Trung rồi kiếm đường qua Lào, từ Lào sẽ qua Thái lan. Họ bị bắt hoặc thấy nguy phải quay về.

Từ năm 1977, người ta dùng đường biển, phong trào vượt biên phát triển rất mạnh tới mức một bà già nông dân miền Tây phải nói: “Cây cột đèn nếu đi được thì cũng đi”. Dù phải gian lao cực khổ tới nước nào, hễ ra khỏi được nước là sướng rồi, làm mồi cho cá mập vẫn còn hơn ở lại trong nước mà chết lần chết mòn, người ta nghĩ vậy. Cha mẹ già chỉ có mỗi một người con mà cũng khuyên nó vượt biên; chồng đi “cải tạo” — nghĩa là bị giam trong những trại tập thể chưa biết bao giờ mới được về vì là “ngụy hạng nặng”, phải cải tạo tư tưởng, đời sống — cũng nhắn vợ con vượt biên được thì cứ vượt, dắt con theo. Một thanh niên vượt biên thoát mới tới Thái lan đánh điện về cho cha mẹ: “Ba má nhớ hôm nay là ngày sinh nhật của con không?” và cha mẹ mỉm cười, hiểu.

Có ba cách vượt biên.

Cách CHÍNH THỨC, sướng nhất là có người thân, cha mẹ, vợ chồng hay con cái ở ngoại quốc xin cho được đoàn tụ gia đình. Trường hợp đó được chính phủ cho phép, được Ủy hội quốc tế tị nạn ( Haut commissariat des réfugiés: H.C.R. ) giúp đỡ. Đơn gởi rồi, sáu tháng hay một hai năm sau được đi. Sớm muộn là tùy mình biết “phải trái” hay không. Đi thì gia sản để lại hết, chỉ được mang theo ít tư trang với ít tiền ăn đường.

Cách BÁN CHÍNH THỨC, theo nguyên tắc, cho người Việt gốc Hoa, nhưng người gốc Việt mà muốn thành gốc Hoa thì cũng không khó. Có tiền là được hết.

Một người đứng ra tổ chức, nộp đơn xin cho cả nhóm người — khoảng vài trăm — vượt biên kèm theo hồ ssơ của từng người, và nộp cho chính phủ 4 lượng vàng. Chính phủ cho phép rồi, bọn người đó tập trung lại một nơi, hùn nhau đóng thuyền đóng xong, chính phủ sẽ cho công an xuống xét thuyền, xét lí lịch, hành lí từng người ( mỗi người cũng chỉ được mang theo ít tiền thôi ), rồi cho phép nhổ neo ra khơi, chính phủ bảo đảm an ninh cho tới khi ra hết hải phận quốc gia, rồi từ đó thuyền muốn đi đâu thì đi, chính phủ không biết tới. Rất ít nước chịu tiếp thu bọn đó, và xét kĩ từng người rồi mới cho lên bờ.

Có thuyền chở khẳm quá, thuyền đóng cho 200 người thì chở tới 300, lại thêm chính quyền địa phương “gởi” một hai trăm người nữa, ngồi chen chúc nhau như cá hộp, không nhúc chích được, như vậy ba bốn ngày, ăn uống, đi tiểu rất bất tiện mà cũng rán chịu. Có chiếc vừa ra khơi được vài chục hải lí, gặp cơn dông, chìm, xác chết tấp vào bờ, ngổn ngang trên bãi cát.

Có trường hợp chính phủ đã nhận đủ vàng, thuyền đóng chưa xong thì có lệnh trên hoãn các cuộc vượt biên chính thức lại; hoãn cả năm rồi và hiện nay ( 1980 ) còn rất nhiều người phải ở chỗ đóng thuyền, vì họ làm khai sinh giả, nhà đã bị tịch thu, chỗ đâu mà về. Họ xin chính phủ trả lại số vàng, chính phủ chỉ trả một phần ba, hoặc trả tất cả theo giá vàng chính phủ định không bằng 1/5 giá vàng trên thị trường. Họ lêu bêu, thành một bọn vô gia cư, vô nghề nghiệp, sống cực điêu đứng.

Cách thứ ba là ĐI CHUI, nghĩa là đi lậu. Một người đứng ra tổ chức, một nhóm từ 20 đến 4-5 chục người, hùn nhau từ 4 đến 7-8 lượng vàng đóng thuyền, kiểu thuyền đánh cá, mua một bãi biển, nghĩa là đút lót cho công an, chính quyền ở làng có bãi biển, đút lót cho cả công an vài nơi chung quanh để người vượt biên khỏi bị xét hỏi, thuyền yên ổn được rời bến ban đêm. Công an những nơi có bãi biển đó nhờ vậy làm giàu rất mau, có kẻ chỉ một hai năm được vài chục lượng vàng và ôm vàng vượt biên. Do đó mà trong dân gian xuất hiện truyện tiếu lâm dưới đây.

“Một hôm nọ, người canh lăng bác Hồ bổng thấy xác ướp của bác biến đâu mất, hoảng hốt đi tìm khắp nơi, tìm ở nhà sàn của bác không thấy, về quê hương bác ở Nghệ an cũng không thấy, nghi rằng bác vào chơi thành phố của bác, liền vào Sài Gòn kiếm, sau cùng một đêm, thấy bác ngồi một mình, rầu rĩ ở bến Sáu kho, thành phố Hồ Chí Minh, hỏi bác, sao lại ra ngồi đấy, bác đáp: ‘Bác không muốn ở nước này nữa, muốn qua phương Tây đây, mà tụi công an đòi bác sáu cây, bác có cây đâu mà nộp cho chung’” — “Cây” là “cây hai lá rưỡi” nói tắt, tực một lượng vàng vì mỗi lượng có hai lá rưỡi vàng”.

Thường là thoát được, ít khi gặp tàu tuần; nhưng nhiều khi gặp bão, thuyền chìm, làm mồi cho cá mập, hoặc gặp bọn cướp biển Thái lan. Chúng vơ vét hết, chỉ chừa cho mỗi người một cái quần cụt, và có thiếu phụ bị chúng hiếp dâm tới 19 lần ( 6 ). Sau cùng may phước tới được bờ biển Thái lan hay là một đảo Mã lai — sướng nhất là được một tàu Tây phương vớt — lúc đó mới kể là còn sống.

Có một trường hợp xui lạ lùng. Một đoàn người lên được một đảo Mã lai, ở được ít lâu rồi một hôm chính quyền trong đảo lùa họ xuống hết thuyền của họ, bảo để đưa đến một đảo khác; nhưng ra khơi, chúng cắt đỏi cho thuyền trôi đâu thì trôi ( máy móc bị chúng gỡ rồi ) và ít ngày sau, thuyền giạt vào bờ biển Cà mau, bị bắt giam hết, người thì 5-6 tháng, người thì 3 năm.

Mặc dầu nguy hiểm như vậy, người ta vẫn không sợ, thua keo này bày keo khác. Có người tới lần thứ tư mới thoát, lại có người lần thứ 10 vẫn chưa thoát, mà sản nghiệp tiêu tan hết, không biết sống bằng gì.

Có người mạo hiểm dám băng ra khơi bằng một chiếc tắc-ráng ( bo-bo ): loại xuồng nhỏ, chở được độ mươi người, chạy bằng xăng, lướt trên nước rất mau. Vậy mà thoát được.

Từ cuối 1979 thêm một cách vượt biên nữa bằng đường bộ, ngã Cao miên. Hoặc theo xe nhà binh, hoặc theo người Miên đi buôn lậu, lên tới Nam vang rồi tới Battambang, Sisophon. Phải mang theo vàng để đóng thuế mãi lộ. Tới biên giới Thái lan, nếu biết tiếng Anh, tiếng Pháp thì sẽ được Ủy hội quốc tế tị nạn giúp đỡ. Nghe nói cách đó chỉ tốn 2-3 lượng, mỗi chuyến đi chỉ được vài ba người ăn bận như bọn luôn lậu. Cũng nguy hiểm như vượt biển. Một đứa cháu nhà tôi trong túi chỉ có 100 đồng, không biết tiếng Miên, không quen ai ở Miên mà cũng vượt biên cách đó.

Người nào vượt biên được một nước nào tiếp thu rồi, được trợ cấp hay kiếm được việc làm rồi, cũng gởi ngay về cho thân nhân một gói thực phẩm, thuốc uống, quần áo… bán được một hai ngàn đồng. Họ làm lụng cực khổ, ( rửa chén trong quán ăn… ) nhịn hút thuốc để giúp gia đình vì biết rằng người ở lại thiếu thốn gấp mười họ. Chính nhờ họ mà nhiều gia đình miền Nam mới sống nổi, nhờ họ một phần mà dân miền Nam có thuốc tây để uống, có vải may quần áo, không đến nỗi rách rưới quá. Trong hoạn nạn tình cha mẹ, con cái, vợ chồng lúc này lại đằm thắm hơn xưa. Cái củi thành cái may.

Về vật chất họ được đầy đủ, nhưng về tinh thần họ rất đau khổ. Nhớ bà con họ hàng, nhớ quê hương xứ sở, nhớ day dứt, da diết. Họ khóc thương thân phận anh hay em ở trong các trại cải tạo mỗi bữa chỉ được một nắm bo bo; thân phận cha mẹ chú bác phải đấy chiếc xe bán củi, bán chuối dưới mưa, dưới nắng, đau ốm không có thuốc uống; thân phận con cháu quanh năm không được một li sữa, một cục đường. Ở một xứ gần như trời luôn luôn u ám, họ ước ao được nhìn thấy một tia nắng, một nền trời xanh, và khi trời xanh, ánh nắng hiện lên thì họ càng nhớ quê hơn nữa; họ muốn được vuốt ve thân cây chuối nhẵn bóng và mát rượi; được nhìn ánh vàng nhảy múa trên những tàu dừa phe phẩy dưới gió nồm; nhìn hoài những con đường thênh thang trải nhựa, họ chán ngấy, mơ tưởng được đi chân không trên những con đường đất ở giữa hai bờ cỏ, dưới bóng lưa thưa của hàng so đũa, ven một cánh đồng lúa xanh: mặt đất ấm hơn mặt đường nhựa biết bao mà có gì thơm mát bằng mùi lúa xanh, sau mấy năm ngửi mùa xăng nhớt.

Có những thiếu phụ thay đổi hẳn tính tình: ở nước nhà thì thích trang điểm, đi dạo phố, họp bạn; qua nước người thì suốt ngày ở trong phòng lau chùi, quét tướt, nấu ăn cho chồng con, không chịu ra đường, chồng con lôi kéo cũng không đi; một ngày kia họ sẽ loạn tinh thần mất. Khổ nhất là những bà 50-60 tuổi,không biết ngoại ngữ, không sao thích ứng được với đời sống Tây phương, mới xa quê được một năm đã đòi về, ngày nào cũng ngóng tin nhà, và được thư thì đọc đi đọc lại tới thuộc lòng. Ngày đêm họ cho quay băng “Sài Gòn ơi, li biệt” của Thanh Thúy, băng “Ta chẳng lẽ suốt đời lưu vong” của Phạm Duy mà khóc mướt. Giọng ảo não không kém bài hát của dân tộc Do thái khi bị đày ở Babylon hồi xưa.

❀❀❀

Trong số những người ở lại, đáng thương nhất là những cặp vợ chồng già không có con cái, bị chính phủ chặn lương hưu trí, rán sống lây lất vài năm, bán hết đồ đạc để ăn rồi tự tử.

Rồi tới những người sản nghiệp tiêu tan vì đi kinh tế mới hoặc vì vượt biên mấy lần mà thất bại, sống cầu bơ cầu bất ở vỉa hè các thành phố lớn nhỏ như bọn ăn mày.

Rồi những cô giáo, cô kí chồng đi cải tạo 5 năm đằng đẵng, ở nhà xoay xở đủ cách, làm việc đêm ngày, nhịn ăn nhịn mặc để nuôi bốn năm đứa con, vài tháng lại tiếp tế cho chồng một lần. Họ vì hoàn cảnh mà hóa đảm đang, tư cách lại cao lên, không chịu nhân sự giúp đỡ của họ hàng, bạn bè.

Rồi những thiếu nữ học hết Đại học sư phạm hay Luật mà không muốn làm công nhân viên vì lương thấp quá, kiếm một cái sạp nhỏ nửa thước vuông bán thuốc rời hay quần áo cũ, thuốc tây ở lề đường, vất vả nhưng kiếm được 10-15 đồng mỗi ngày, đủ cơm cháo cho cha mẹ và em. Họ lễ phép, chăm chỉ, dễ thương.

Tất cả những người đó và còn nhiều hạng người khác nữa đáng tự hào là ngụy. Ngụy mà như vậy còn đáng quí gấp trăm bọn tự xưng là “cách mạng” mà tư cách đê tiện.

Có ai chép Ba đào kí cho thời đại này không nhỉ? Trong tập kí đó dày ít gì cũng vài ngàn trang, truyện buồn rất nhiều mà truyện vui cũng không thiếu, truyện nào cũng cảm động, đánh dấu một thời và làm bài học cho đời sau được.

❀❀❀

NGƯỜI TA ĐÃ NHẬN ĐỊNH SAI

Vậy dù có lạc quan tới mấy cũng phải nhận rằng công việc xã hội hóa miền Nam này tới nay đã thất bại. Chỉ mới dựng được cái sườn thôi mà đã có nhiều dấu hiệu tỏ rằng sườn đó đã nghiêng ngả: rất nhiều cán bộ đã hủ hóa, hùng hục làm giàu bằng mọi cách, thành một bọn tư sản rồi, tinh thần quân đội đã sa sút, hợp tác xã nông nghiệp đã thất bại, chính sách kinh tế mới phải bãi bỏ; một vài địa phương đã rụt rè lập lại chế độ tư bản: cho dân mặc sức kiếm lợi, cho chợ trời tha hồ phát triển, cho tăng giá xe đò, cho mua xăng và dầu lửa tự do, giá gấp mấy chục lần giá chính thức. Xí nghiệp đánh cá Côn sơn dùng chính sách chia lời; hễ nộp đủ số cá cho chính phủ rồi thì làm thêm được bao nhiêu, được chia nhau hưởng. Chỉ trong một hai năm, xí nghiệp phát triển rất mạnh, mua thêm được mấy chục chiếc tàu mới, thuyền trưởng được chia 2.000 đồng một tháng, thủy thủ 1.500 đồng ( lương bộ trưởng chỉ khoảng 200 đồng ); chính phủ thấy vậy buộc họ chỉ được tiêu một phần ba số đó còn thì phải gửi ngân hàng, nhưng không biết họ có tuân không.

Ngành nào cũng kẹt, kẹt cứng, chính quyền không biết xoay xở ra sao, vá chỗ này thì toạc chỗ khác, càng dùng những biện pháp nhất thời thì càng lúng túng. Ngay các cán bộ trung kiên cũng phải nhận rằng tình hình mấy năm sắp tới con nguy kịch hơn, chỉ còn trông cậy vào việc tìm mỏ dầu ở ngoài khơi Vũng tàu. Nếu trong ba năm nữa không tìm được mỏ nào có thể khai thác mà có lợi, không sản xuất được dầu thô thì tương lai dân tộc sẽ ra sao? Mà nếu tìm được thì lại phải chịu cái nguy khác: rất có thể Việt nam thành nơi tranh chấp về dầu giữa các cường quốc. Thật bi đát.

Chỉ tại người ta đã tính lầm. Thắng được Mĩ rồi, người ta tin rằng sẽ làm bá chủ bán đảo Đông dương, không nhận định được đúng tình tình thế giới.

Người ta nhận định sai tài năng, đạo đức, tinh thần hi sinh của cán bộ, tưởng rằng cao lắm và có thể dễ dàng kiến thiết miền Nam thành một xã hội xã hội chủ nghĩa, không ngờ cán bộ tuy rất đông mà rất kém cỏi về mọi mặt, mà tối đại đa số không ưa xã hội chủ nghĩa, thích đời sống miền Nam hơn.

Người ta nhận định sai về tình trạng miền Nam. Trước ngày 30-4-1975, miền Nam rất chia rẽ: nhiều giáo phái, đảng phái nhưng tiến bộ hơn miền Bắc nhiều về mức sống, kĩ thuật, nghệ thuật, văn hóa; nhờ ngôn luận được tương đối tự do, nhờ được đọc sách báo ngoại quốc, biết tin tức thế giới, du lịch ngoại quốc, tiếp xúc với người ngoại quốc…; cả về đạo đức nữa: vì đủ ăn, người ta ít thèm khát mọi thứ, ít gian tham ( tôi nói số đông ), ít chịu làm cái việc bỉ ổi là tố cáo người hàng xóm ( 7 ) chứ đừng nói là người thân, nói chung là không có hành động nhơ nhớp như nhiều cán bộ ở Bắc tôi đã kể ở trên. Tôi còn nhận thấy vì người Nam bị coi là ngụy hết, nên càng đoàn kết với nhau, thương nhau: cùng là ngụy với nhau mà!

Như vậy mà đưa cán bộ Bắc vào cai trị họ, dạy chính trị họ thì làm sao không thất bại? Bọn đó quê mùa, ngu dốt, nghèo khổ, vụng về, tự cao tự đại, bị người Nam khinh ra mặt, mỉa mai; lớp dạy chính trị cho dân chúng mỗi ngày một vắng, hiện nay cả năm không họp một lần.

Một thất bại nặng nề của cách giáo hóa đó là báo Nhân dân không ai đọc, người ta mua về để bán “ve chai”, ngay cả bộ Lénine toàn tập cũng vậy.

Sau 5 năm, cả triệu cán bộ và thường dân Bắc vào Nam mà Bắc Nam miễn cưỡng sống với nhau, lơ là với nhau, Nam coi Bắc là bọn thực dân, tự coi mình là bị trị. Làm gì có sự hợp tác?

Ông Hồ Chí Minh rất sáng suốt, từ 1962 đã thấy sự thống nhất Việt nam không có lợi mà gây rất nhiều vấn đề khó khăn, chỉ tạo gánh nặng cho Bắc ( coi lại cuối chương XXI ). Nếu 1975 ông còn sống thì chắc ông để cho miền Nam trung lập ( đúng như lời tuyên bố của Mặt trận giải phóng khi mới vô Sài Gòn ), làm một cửa sổ ngó ra thế giới bên ngoài, mà sẽ mau thịnh vượng lợi chẳng những cho Nam mà cả cho Bắc nữa. Những người nối nghiệp ông tự cho là khôn hơn ông.


Tài liệu và chú thích của cụ Nguyễn Hiến Lê:

( 1 ) Kravchenko, J’ai choisi la liberté. Trang 114 (Seft-1948).

( 2 ) Tháng 7 năm 1981, lương đã được tăng gấp hai, nhưng chính phủ cho tay này thì lấy lại bằng tay khác: giá nhu yếu phẩm, vé xe đò, tem gởi thư… cũng tăng lên như vậy, có thứ tăng gấp 10 nữa.

( 3 ) Tháng 8-1980, một cán bộ giáo dục ở Hà nội vào bảo tôi bây giờ họ phải ăn độn 90%, cực khổ hơn những năm 1973-1974 nhiều lắm, mà tình trạng đó còn kéo dài lâu. Thân phận không bằng con heo ở trong Nam.

( 4 ) Thời này nước mình xuất nhiều ca dao và truyện tiếu lâm, hơn thời cuối Lê nữa; trong một đoạn ở sau về Phong trào vượt biên, tôi sẽ chép một truyện tiếu lâm. Nghe nói đã có người thu nhập những ca dao và truyện tiếu lâm đó để lưu lại.

( 5 ) Do đó mà có câu mỉa mai này: vá ruột xe máy thì được 3 đồng mà vá ruột người chỉ được 8 hào.

( 6 ) Coi phụ lục “Kinh hoàng trên đảo Kokra” ở cuối bộ.

( 7 ) Một thím làm tổ phó lo về đời sống, được công an phường gọi đi học tập. Mới hết buổi đầu, thấy công an chỉ dạy cách dò xét, tố cáo đồng bào (ăn uống ra sao, chỉ trích chính phủ không, khách khứa là hạng người nào…), thím ta xin thôi liền, về nói với bạn: “Tôi không làm công việc thất đức đó được!” Lớp học đó bỏ luôn.

Ai đổi tên Sài Gòn thành Thành Phố Hồ Chí Minh?

Cái đám Cộng Sản Đệ Tam của Nam Kỳ đã đổi tên Sài Gòn thành tên cái xác thối.

Sau ngày 30/04/1975, với khí thế tưng bừng và đề nghị của đám cách mạng lão thành, ông Võ Văn Kiệt xin quốc hội và chính phủ trung ương đổi tên thành phố Sài Gòn Gia Định thành Thành Phố Hồ Chí Minh. Quan điểm của chủ tịch Quốc Hội lúc bấy giờ là Trường Chinh không tán thành, nhưng rồi sau cuộc họp ngày 02/07/1976, Quốc Hội cũng đã thông qua!

Thực ra ý tưởng đổi tên đã có từ lâu, người khởi xướng là bác sĩ Trần Hữu Nghiệp.

Tháng Ba năm 1946, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp được lãnh đạo Khu 8 và tỉnh ủy Bến Tre cử ra Bắc báo cáo với trung ương, tham gia vào đoàn vượt biển còn có bà Nguyễn Thị Định, giáo sư Ca Văn Thỉnh, ông Nguyễn Văn Khước. Ông Nghiệp được giữ lại Hà Nội tiếp tục công tác đến năm 1947.

Ngày 25/8/1946, Phòng Nam bộ Trung ương nhóm họp tại đường Gia Định, nay là đường Trần Nhật Duật. Tại cuộc họp đó, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp đưa ra ý tưởng lấy tên Hồ Chí Minh đặt cho Sài Gòn-Gia Định. Ý tưởng nhanh chóng được hưởng ứng. Một ngày sau, 57 người miền Nam đang tham gia cách mạng gửi một bản quyết nghị lên Quốc Hội và Chính Phủ.

“Xin Quốc hội và Chính phủ đổi ngay tên thành phố Sài Gòn lại là tên thành phố Hồ Chí Minh để tượng trưng sự chiến đấu, hy sinh và cương quyết trở về với Tổ Quốc của dân Nam Bộ” – bản quyết nghị viết.

57 người ký tên, trong đó có Cục Trưởng Quân Y Trần Hữu Nghiệp, vị bác sĩ giàu có từng sở hữu bệnh viện tư ở Mỹ Tho, bỏ danh vọng đi theo cách mạng; Trần Công Tường ( luật sư ) sau này làm Thứ Trưởng Tư Pháp; Nguyễn Tấn Gi Trọng ( Phó Cục Trưởng Quân Y ) người giữ ghế đại biểu Quốc Hội Việt Nam 7 khóa sau đó.

( Nguồn tổng hợp )

Nguồn ( không còn tồn tại ):

Vu Ngo Vinhhttps://www.facebook.com/groups/1051752364862874/permalink/4525289527509123/

❀❀❀

Phụ chú của hoangkyblog:

Khoảng thời gian trong bài báo là khi Hồ C Minh sang Paris ký “Thỏa Hiệp Án Fontainebleau”, bán đứng Việt Nam cho Pháp, để Pháp trở lại Việt Nam, sử dụng tình hình rối ren để tiêu diệt cách đảng phái quốc không cộng sản!

Thằng Hồ C Minh là tội đồ của dân tộc Việt Nam.

Thỏa Hiệp Án Fontainebleau 14/09/1946: ông Hồ cấu kết với Pháp để tiêu diệt các đảng quốc gia. Tác Giả: Hứa Hoành.


Lý do, ông Hồ tạm hòa với Pháp, để tiêu diệt người cùng đoàn kết với mình trong chính phủ liên hiệp. Ðó là ý đồ thầm kín của ông Hồ và thực dân Pháp.

[
Bài viết này có lẽ được tác giả Hứa Hoành hoàn tất vào ngày 26/09/2002. Được Dân Chủ dot Net đăng lại, trang web này nay không còn nữa. Trang http://www.geocities.ws/xoathantuong/hh_14946.htm đã đăng lại.
]

Kéo rốc sang Pháp làm gì?

Lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến nay, còn nhiều bí ẩn chưa được giải tỏa. Người bàng quan, các thế hệ sau, sẽ không thấy được những âm mưu thầm kín của ông Hồ đã tiêu diệt người quốc gia, nếu như chúng ta không phát hiện được những bí mật lịch sử đó. Chúng tôi may mắn được nhà sử học Chính Ðạo, tức tiến sĩ Vũ Ngự Chiêu, cho phép sử dụng nhiều tài liệu quý giá mà ông sao lục từ các văn khố, thư viện của bộ Thuộc Ðịa, bộ Ngoại Giao Pháp… để làm sáng tỏ nhiều uẩn khúc lịch sử, vốn bị cộng sản che giấu, nhiễu loạn từ hơn nửa thế kỷ qua. Chúng tôi chân thành cảm tạ tiến sĩ Chiêu. Trong loạt bài nầy, chúng tôi sẽ trưng bằng chứng về những hành vi phản bội quyền lợi dân tộc của ông Hồ. Nổi thao thức của ông Hồ lúc nầy là Việt Minh phải mắm chính quyền, không chia xẻ, nhượng bộ cho bất cứ đảng phái nào. Ðó là đường lối nhất quán, trước sau như một của đảng cộng sản. Ðây cũng là dự mưu, từ khi ngoài rừng núi Tân Trào kéo về Hà Nội. “Căn cứ vào kết quả của cuộc thảo luận của ông Hồ cùng các cán bộ, thấy rằng công cuộc phát triển cách mạng của họ sẽ dẫn đến 2 trường hợp:

  1. Một là đủ sức cướp chính quyền, bản thân họ có đủ điều kiện để đàm phán bình đẳng các vấn đề với các nước Ðồng Minh…
  2. Hai là lực lượng bản thân ( Việt Minh ) còn yếu kém… Việt Minh phải suy nghĩ đến việc cùng với nước Pháp tiến hành đàm phán, để tranh thủ một số quyền lợi và tự do dân chủ. Sau đó sẽ dùng những quyền lợi nầy làm vốn liếng để tuyên truyền, rồi tiến thêm một bước, đẩy tới cuộc vận động cách mạng, để tiếp tục đấu tranh với Pháp…”.

Tưởng Vĩnh Kính, Hồ Chí Minh Tại Trung Quốc, Thượng Huyền dịch, trang 339.

Hiểu rõ chiến lược của ông Hồ, cho nên chúng ta không lấy làm lạ khi đối với kẻ thù chính là Pháp, thì ông Hồ tiếp tục nhân nhượng từ quyền lợi nầy đến quyền lợi khác. Ðang tuyên bố là một quốc gia độc lập, tự do ( 02/09/1945 ), vài tháng sau, ông Hồ xin làm một “quốc gia tự do trong Liên Hiệp Pháp” ( tức đế quốc trá hình ), và cho Pháp mọi quyền lợi đầy đủ tại Việt Nam như thời thuộc địa. ( Xem nội dung Thỏa Hiệp Án 14/09/1946 ). Chủ trương của ông Hồ lúc nầy ( 1946 ) là dựa vào Pháp, cấu kết với Pháp để tiêu diệt các đảng quốc gia anh em, đang chia xẻ quyền hành với ông trong “chính phủ liên hiệp”, mà ông đã vật vã van nài. Cấu kết với Pháp để tiêu diệt người quốc gia tức là chủ trương “liên kết với A đánh B”. “Ông Hồ thà nhường cho Pháp thống trị Việt Nam thêm một thời gian nữa, chứ không muốn các đảng phái quốc gia đứng ra lãnh đạo một nước Việt Nam độc lập”, hoặc chỉ tham gia với Việt Minh để “đoàn kết chống Pháp” như ông đã hùng hổ kêu gọi.

Tất cả hành động của ông Hồ đều trước sau như một, nhằm giành lấy sự độc quyền lãnh đạo đất nước, đặng mấy năm sau tiến hành cuộc cách mạng vô sản, đưa toàn dân vào quỹ đạo cộng sản quốc tế. Vấn đề Việt Nam có sớm được độc lập hay không chỉ là thứ yếu. Quyền lợi dân tộc cũng chỉ là bình phong để ông Hồ thực hiện âm mưu nắm chặt chính quyền. Người quốc gia có thể nhìn thấy thủ đoạn của ông Hồ, hoặc nóng lòng vì độc lập tự do, nên đã “đoàn kết trong mặt trận Việt Minh”, để rồi tất cả chịu chung số phận oan nghiệt.

Sau ngày 02/09/1945. Việt Nam trở thành quốc gia độc lập thật sự, mà kẻ thù chính là thực dân Pháp còn ở xa. Với Hiệp Ước Sơ Bộ ( 06/03/1946 ), ông Hồ mời quân Pháp vào chiếm đóng Hà Nội và nhiều tỉnh miền Bắc.

Ðó là một trọng tội trong lịch sử. Ông cần rảnh tay để đối phó với các đảng theo chủ nghĩa quốc gia dân tộc. Ðể che giấu chủ trương bắt tay với kẻ thù, ông Hồ tuyên bố chính sách “văn hóa Pháp Việt đề huề” ( Điều 3 Thỏa Hiệp Án ), ca tụng “nước Pháp mới” ( nước Pháp của thực dân ) và Liên Hiệp Pháp, tức đế quốc trá hình. Nổi thao thức của ông Hồ lúc này ( 1946 ) là không muốn bất cứ một tổ chức hay cá nhân nào ngoài Việt Minh nắm quyền, hay chia xẻ quyền hành với Việt Minh. Hiểu như thế nên chúng ta mới không ngạc nhiên khi đối với kẻ thù chính là Pháp, thì ông ta đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác. Vừa mới tuyên bố độc lập, ông Hồ lại chịu nép mình trong khuôn khổ Liên Hiệp Pháp, và cho Pháp có đầy đủ quyền lợi như thời thuộc địa. Thái độ của ông Hồ lúc nầy là dựa hẳn vào Pháp, cấu kết với Pháp, để tiêu diệt các đảng phái quốc gia. Nếu thực tâm yêu nước và chiến đấu vì quyền lợi quốc gia dân tộc, ông Hồ và mặt trận Việt Minh đã tích cực chuẩn bị kháng chiến khi Pháp chưa trở lại Việt Nam. Ông đã bỏ phí thời gian ( 15 tháng, năm 1945-1946 ) mà còn phá nát thế đoàn kết chiến đấu của những đảng quốc gia đang “liên hiệp” với ông trong cái chính phủ do ông làm chủ tịch. Ðiều này có nghĩa vì sự độc quyền lãnh đạo của Việt Minh, mà ông Hồ đã phá nát thế đoàn kết kháng chiến chống Pháp, làm cho thế lực Việt Nam yếu đi, nhưng ông vẫn làm, vì sự độc quyền lãnh đạo của Việt Minh.

Giữa lúc tình thế đất nước rối ren, chính cá nhân ông Hồ cùng mấy chục bộ trưởng dân biểu không thuộc cộng sản, kéo rốc sang Pháp để tham quan, để thăm thiện chí, mà thực sự tình thế nước Pháp cũng lâm cảnh tang gia bối rối ( chính phủ Gouin vừa mới đổ, còn chính phủ mới Bidault chưa thành lập ), lại phải đón tiếp một vị khách bất đắc dĩ trong khi tình thế nội bộ chưa ổn định. Phái đoàn thiện chí của Hà Nội gồm 10 vị, do Phạm Văn Ðồng cầm đầu, gồm có: Phạm Văn Ðồng, ( Bộ Trưởng ) Trần Ngọc Danh ( Dân Biểu Cần Thơ do cộng sản chỉ định ), Ðỗ Ðức Dục ( Bộ Trưởng ), Nguyễn Mạnh Hà ( Bộ Trưởng ), Nguyễn Văn Luân ( Dân Biểu ), Trình Quốc Quang, Tôn Ðức Thắng, Huỳnh Văn Tiểng, Hoàng Tích Chu, Nguyễn Tấn Di-Trọng. Rồi phái đoàn tham dự hội nghị Fontainebleau gồm trên 20 vị vừa bộ trưởng, vừa dân biểu. Giữa lúc đó, Pháp đã đưa quân vào Hà Nội, kéo đi chiếm đóng Lạng Sơn, Bắc Ninh, Hải Dương, tích cực chuẩn bị đè bẹp kháng chiến. Tình hình kháng chiến Nam Bộ gần như bị đè bẹp hoàn toàn. Ðầu Tháng Hai, năm 1946, Pháp kiểm soát hoàn toàn tất cả 21 tỉnh Nam Bộ và mấy tỉnh Nam Trung Bộ. Cụ Huỳnh Thúc Kháng, một nhà Nho nổi tiếng yêu nước, ngay thật, không biết thủ đoạn chính trị, được ông Hồ cử làm quyền chủ tịch nước, chỉ để tượng trưng. Mọi việc đều được trung ương đảng gồm Trường Chinh, Trần Ðăng Ninh, Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Kháng… cùng với Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu, cứ theo kế hoạch bí mật của ông Hồ mà thi hành. Chính Trung Ương Đảng thảo kế hoạch bí mật để khủng bố, tàn sát đẫm máu các đảng quốc gia, mới “liên hiệp” với Việt Minh.

Có người binh vực cho rằng khi ông Hồ sang Pháp, không chịu trách nhiệm về tình hình xảy ra tại quê nhà. Lý luận như thế là sai lầm. Ông Hồ ra chỉ thị mật, nhận báo cáo của Trung Ương Đảng hàng đêm. Ðây là bí mật lịch sử tới nay ít ai biết. Pierre Celérier viết trong “Menace sur le Vietnam” ( 1950 ): “Phái đoàn Việt Nam đi dự hội nghị Fontainebleau có đem theo chuyên viên vô tuyến điện, để đánh tin và bắt tin từ Việt Nam. Nhà chức trách tại Paris biết được bằng cớ về sự chuyển tin và báo tin, nhưng không thể phá vỡ được trên đất Pháp”. Hơn nữa, người Pháp biết ông Hồ chỉ khủng bố người quốc gia, chớ không tấn công quân Pháp, nên làm ngơ, vui mừng là khác. Ngày 01/06/1946 ông Hồ nhận tin Việt Minh tấn công quân Ðồng Minh Hội tại Phủ Lạng Thương, Ðồng Mỏ, Lạng Sơn.

Hạ tuần Tháng Sáu, năm 1946, các cơ sở Quốc Dân Ðảng tại Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ, ( Xem thêm Hoàng Tường, Việt Nam Ðấu Tranh, từ trang 89-101 ), bị tập kích với lực lượng đông gấp 10 lần, bị Việt Minh bao vây, tuyệt lương, rồi tỉa dần từng toán nhỏ. Quá tuyệt vọng, các ông Nguyễn Tường Tam ( Bộ Trưởng Ngoại Giao ), Nguyễn Hải Thần ( Phó Chủ Tịch Chính Phủ ), Vũ Hồng Khanh, Phó Chủ Tịch Quân Ủy Hội đều bôn đào sang Trung Hoa lần nữa. Các đơn vị do Vũ Hồng Khanh, bị tập kích từ Lào Cay, Phong Thổ, khiến cho khoảng 600 quân Việt Nam Quốc Dân Ðảng tan rã, cuối cùng, rút theo ngả Vân Nam. Ðó là “thế đoàn kết”, “liên hiệp” với Việt Minh, một kinh nghiệm máu xương trong lịch sử. Ngoài ra, hàng ngày, tại Hà Nội, Việt Minh khủng bố, bắt cóc, thủ tiêu đối lập như đảng mafia: Hoàng Ngọc Bách, Nguyễn Bạch Vân, Trần Quốc Lạc, Hoàng Tử Quy đều bị ám sát chết. Ðọc lịch sử giai đoạn nầy, nhiều người không hiểu tại sao Việt Minh lại tiêu diệt những người quốc gia trong chính phủ của họ. Lý do thứ nhứt, Việt Minh là cộng sản trá hình. Lý thuyết cách mạng của Mác Xít đã dạy: “Cuộc đấu tranh cho giai cấp vô sản, dù về mặt nội dung, không phải là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu phải mang hình thức đấu tranh dân tộc… Ðương nhiên và trước hết, giai cấp vô sản phải thanh toán xong giai cấp tư sản nước mình trước đã” ( Mác Angen tuyển tập, NXB Sự Thật Mátcơva 1978, trang 555, tập 1. Dẫn lại của luật sư Nguyễn Văn Chức ). Thứ hai, để thực hiện con đường cách mạng vô sản, ông Hồ phải làm sao cho đảng cộng sản ( tức Việt Minh ) phải nắm được chính quyền hoàn toàn, để lần lượt đưa dân tộc và đất nước đi vào quỹ đạo cộng sản quốc tế. Ông Hồ đã nói với cán bộ: “Lúc nầy nước Pháp không phải là kẻ thù trước mắt. Bọn Quốc Dân Ðảng, Ðại Việt, Ðồng Minh Hội, Cao Ðài, Hòa Hảo trong Nam… mới là kẻ thù không đội trời chung”. Người quốc gia không hiểu sách lược của cộng sản nên trở thành nạn nhơn của cộng sản.

Việt Minh mở chiến dịch “tổng ruồng, vét sạch” từ Nam chí Bắc. Họ lùng sục bắt giam, tra tấn, thủ tiêu những người quốc gia, kể cả những đại biểu quốc hội mà họ chia ghế như Lê Khang ( Lê Nin ), nhà văn Khái Hưng, Nguyễn Mạnh Côn… ( bị bắt, sắp giết… ).

( Chú thích của hoangkyblog: văn hào Nguyễn Mạnh Côn, tác giả của “1945 Lạc Đường Vào Lịch Sử”. )

Lê Khang, Chủ Nhiệm Đệ Tam Khu Bộ Việt Nam Quốc Dân, nằm bệnh viện Ðặng Vũ Lạc trước ga Hàng Cỏ, bị Việt Minh đến bắt đem đi, rồi giết ở Vĩnh Yên. Còn các ông Phạm Tất Thắng, Nguyễn Tắc Chung, Nguyễn Quỳnh ( Dân Biểu Nam Ðịnh ), đảng trưởng Ðại Việt Trương Tử Anh… đều bị Việt Minh sát hại. Nhà văn Khái Hưng bị bắt ở Liên Khu 3, rồi bị trấn nước chết tại bến đò Cựa Gà, phủ Xuân Trường, vào năm 1947. Ðó là “đoàn kết trong mặt trận Việt Minh”. Tại miền Trung và Nam Bộ, đều thi hành một chính sách khủng bố man rợ như vậy. Những năm đó, Việt Minh tung công an chìm rình rập, bắt bớ những phần tử mà họ cho là nguy hiểm, đem giam “để điều tra”, hoặc thủ tiêu trong đêm bằng hình thức chặt đầu, mổ bụng, trói thúc ké thả trôi sông.

Về chính trị, Việt Minh nhân danh chính phủ liên hiệp, buộc các báo của các đảng quốc gia như “Việt Nam”, “Thiết Thực” phải nạp bản kiểm duyệt trước khi phát hành. Tóm lại, chủ trương của Việt Minh là tận diệt đối lập, là bịt miệng, trói tay, bí mật thanh toán, rồi ngụy tạo bản án “Việt gian”, “phản quốc”, “thổ phỉ” như vụ án Ôn Như Hầu, vụ án Cầu Chiêm Sơn ( xem thêm Hoàng Văn Ðạo, Việt Nam Quốc Dân Ðảng, trang 362-363 ). Ðó là chủ trương thầm kín để tiêu diệt các đảng phái quốc gia của ông Hồ khi kéo rốc qua Pháp để tránh tiếng.

Cũng xin nhắc thêm về hành động “hợp tác rồi khủng bố”, trở mặt như trở bàn tay của Việt Minh tại Hà Nội.

Ngày 18/06/1946, Việt Minh hợp tác với Việt Nam Quốc Dân Ðảng để tổ chức lễ kỷ niệm Phạm Hồng Thái ( ngày 19 Tháng Sáu ), và Nguyễn Thái Học ( ngày 17 Tháng Sáu ). Qua ngày 11/07/46, Việt Minh đem quân bao vây tiêu diệt các thành phần mới vừa hợp tác mấy hôm trước. Lúc 6 giờ chiều Việt Minh bố ráp trụ sở Việt Nam Quốc Dân tại trường Tiểu Học Ðỗ Hữu Vị, bắt hết đối lập, lục soát báo quán “Việt Nam” kế đó tới vụ dàn cảnh “vụ án Ôn Như Hầu”. Ông Hồ biết rõ Việt Minh đã để lộ chân tướng cộng sản, nên không được Anh, Mỹ cảm tình. Nếu tiếp tục giữ mặt trận Việt Minh, sẽ thất bại trong hội nghị sắp tới tại Fontainebleau, vì thế ông Hồ ra lịnh gấp rút tổ chức một mặt trận khác, để gom hết nhân dân vào một khối, do ông ta và đảng cộng sản nắm chặt, nhưng bên ngoài có tính “quốc gia” hơn. Trần Huy Liệu được căn dặn tổ chức “Hội Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam”, gọi tắt là “Liên Việt” nhằm mục đích trên. Còn Võ Nguyên Giáp được lịnh ở lại với nhiệm vụ bí mật là khủng bố tất cả người quốc gia. Ông còn ra lịnh cho Giáp “hãy hy sinh tất cả để mua thật nhiều súng của quân đội Trung Hoa sắp rút đi”. Thứ hai là vận dụng tất cả khả năng để tiêu diệt những người quốc gia.

Thời gian hơn 4 tháng, ông Hồ qua Pháp ( chưa có một chuyến công du, thăm viếng thiện chí của bất cứ nguyên thủ quốc gia nào quá lâu như vậy ), Trung Ương Đảng thi hành kế hoạch mật khủng bố, ám sát, thủ tiêu, hoặc bao vây tiêu diệt quân đội Quốc Dân, Ðồng Minh Hội. Các việc làm nầy phải báo cáo với ông Hồ tại Pháp hàng đêm. Còn “Hội Liên Việt” tức hội “Liên Hiệp Quốc Dân Việt Nam”, thì ông Hồ quỷ quyệt rút tên ra, chỉ làm chủ tịch danh dự. Ông lừa nhà Nho yêu nước Huỳnh Thúc Kháng làm chủ tịch, để lôi kéo những thành phần quốc gia vào mặt trận. Phó chủ tịch là Tôn Ðức Thắng ( cộng sản ). Tổng thơ ký là Cù Huy Cận ( cộng sản ). Các ủy viên là bác sỹ Phạm Ngọc Thạch, trước ở Sàigòn là quốc gia, sau ra Hà Nội bi nhuộm đỏ! ( Hồi Ký Nam Ðình, trang 341 ). Trần Huy Liệu, ủy viên tổ chức ( cộng sản ), chỉ một nhân vật không cộng sản, thuộc Công Giáo là Ngô Tử Hạ, bị đưa vào làm bình phong và tay sai.

Tại mỗi làng, mỗi tổng, mỗi tỉnh đều có một ủy ban lãnh đạo mặt trận “Liên Việt” do cộng sản nắm giữ. Ngày 12/06/1946, ông Hồ và phái đoàn tới Biarritz, phía Nam nước Pháp, chờ đợi Pháp thành lập chính phủ mới, vì chính phủ Gouin đã đổ. Tình hình nước Pháp đang rối ren mà ông Hồ nhứt định công du, điều đó chứng tỏ ý đồ thầm kín của ông là muốn lánh mặt khỏi Việt Nam, để bọn đàn em tiêu diệt Quốc Dân Ðảng và Ðồng Minh Hội. Gần hai tuần sau, tân chính phủ Bidault được tấn phong. Sainteny đưa ông Hồ lên Paris. Trong hồi ký “Histoire d’une paix manquée”, tác giả Sainteny kể lại: “Hồ Chí Minh hai tay run, nói bên tai tôi:

— Anh đừng rời tôi! Thiên hạ đông quá!

Sử gia Philippe Devillers phê bình: “23 năm trước, Hồ Chí Minh từ giả Paris như một người bị trục xuất, nay ông ta trở lại đây với tư cách chủ tịch một chính phủ ( do quốc hậu bầu cử gian lận tấn phong ), quả thật là một định mệnh”. Ðây cũng là lý do thầm kín để ông Hồ công du qua Pháp, như trả thù lúc ông ta làm bồi tàu, làm bếp khách sạn, bị bạc đãi. Rồi các cuộc đón tiếp diễn ra theo nghi thức quốc trưởng: ông đến thăm Khải Hoàn Môn, đền Versailles, Tòa Thị Chính, L’Opera, Đài Chiến Sĩ Trận Vong… đi tới đâu cũng có đoàn xe mô tô hộ tống và dẫn đường.

Bí mật thương thuyết thỏa hiệp án, Hội Nghị Fontainebleau thất bại

Trong khi chuẩn bị hội nghị Fontainebleau, và trong lúc tiếp diễn ( từ 06/07/1946 tới 10/09/1946 ), ông Hồ cử người đi đêm thương thuyết với Pháp, chấp thuận nhiều nhượng bộ về quyền lợi cho Pháp, nên tại hội nghị, Pháp giữ lập trường cứng rắn. Hai bên về mặt công khai, không thỏa thuận điều gì, nên thất bại. Lý do là tại ông Hồ muốn dựa vào Pháp, nhưng lại sợ dư luận công khai biết. Mãi đến khi hội nghị sắp kết thúc, đêm 10/09/1946, ông Hồ thương thuyết bí mật với các phái viên của văn phòng chính phủ Bidault. Hai bên đã thỏa thuận trên căn bản nhiều vấn đề, ngoại trừ vấn đề Nam Bộ. ( Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu, Tập 1A, trang 347 ). Xin nhắc lại chương trình nghị sự của hội nghị Fontainebleau gồm 4 điểm:

  1. Thống nhứt Việt Nam ( Hội nghị đồng ý để có cuộc trưng cầu dân ý quyết định ).
  2. Vấn đề quan thuế.
  3. Ðại diện ngoại giao.
  4. Văn hóa.

Ba vấn đề sau, đã được ông Hồ chấp thuận hoàn toàn theo đề nghị của Pháp. Tài liệu lích sử của ông Nam Ðình Nguyễn Kỳ Nam, trang 350 ghi lại như sau: “Ngày 11/07/1946, phái đoàn Pháp đưa cho phái đoàn Việt Nam một văn kiện giải thích ‘Liên Hiệp Pháp’ là một tổ hợp có nhiều xứ liên quan với Pháp mà thôi. Còn Liên Bang Ðông Dương là một ‘Hiệp Chủng Quốc’ Phái đoàn Việt Nam phúc đáp ngày 12/07/1946: ‘Việt Nam nằm trong Liên Hiệp Pháp là một sự hợp tác tự do, bằng nhau về mọi phương diện và quyền lợi. Còn Việt Nam trong Liên Bang Ðông Dương tức là Việt Nam trong phạm vi kinh tế, tài chánh’. Như vậy, về công khai giữa hội nghị, hai phái đoàn khác nhau về lập trường đối với Liên Bang Ðông Dương và Liên Hiệp Pháp, nhưng trong bí mật, ông Hồ đã chấp thuận tất cả. Như vậy làm sao Pháp nhượng bộ điều gì? Cùng ngày 12/07/1946, để trấn an dư luận, Hồ Chí Minh họp báo, giải thích: ‘Giữa Pháp và Việt Nam sẽ có một hiệp ước riêng ( tức Thỏa Hiệp Án 14/09/1946 ) mà Pháp phải nhìn nhận nguyên tắc “Dân tộc tự quyết.

Còn vấn đề Liên Bang Ðông Dương, là vì Ðông Dương gồm có Miên và Lào, nên cơ quan nầy đang hợp tác nhau về mặt kinh tế thôi, chớ đừng lập lại chế độ Toàn Quyền trá hình ( sự thật là như vậy )… Về ngoại giao, Pháp muốn Việt Nam chỉ biết có Pháp mà thôi. Còn Việt Nam thì bảo rằng ‘đã là một nước độc lập, thì Việt Nam phải có bộ ngoại giao riêng, trực tiếp với các nước khác’. Về chính trị, phái đoàn Pháp bảo rằng ‘đó thuộc về thẩm quyền của chính phủ Pháp, phái đoàn Pháp chỉ biết chuyển nghị án của Việt Nam lên chính phủ Pháp mà thôi’. Trong lúc lập trường hai phái đoàn không đồng ý điểm nào, thì Cao Ủy d’Argenlieu phá hội nghị bằng cách mở hội nghị Liên Bang Ðông Dương tại Ðà Lạt, từ ngày 23/07/1946, nhưng mãi đến 01/08/1946 mới khai mạc. Phái đoàn Việt Nam gồm 3 phần: Nam Kỳ Quốc với Ðại Tá Nguyễn Văn Xuân làm trưởng đoàn. Ông Nguyễn Văn Xuân bị ông Hồ lấy tên để trong ‘chính phủ lâm thời tự phong’ từ rừng sâu, mà không hỏi ý kiến, cũng chưa từng gặp gỡ, quen biết ( Buổi họp kín của 8 đảng viên cộng sản, ngụy tạo là ‘Quốc Dân Đại Hội Tân Trào’ ). Thủ đoạn này cũng giống như trường hợp bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, ông Hồ chỉ nghe mang máng là thủ lãnh Thanh Niên Tiền Phong, liền ‘chộp’ đại tên ‘Phạm Văn Thạch’ lồng trong danh sách thành viên ‘chính phủ’. Thêm một nhân vật khác là Lê Văn Hiến, mặc dù là cộng sản, nhưng cũng không thuộc phe ông Hồ, đang ở miền Trung, được ông Hồ mượn tên, gọi ‘Lê Quốc Hiến’, để trong danh sách ‘chính phủ lâm thời’, để dư luận hiểu lầm rằng những vị này có vô rừng Tân Trào họp ‘quốc dân đại hội’. Ðó là những sự kiện dối trá, cho tới nay rất ít người biết. Phái đoàn Việt Nam thứ hai là của sắc tộc Chàm, do ông Lưu Ái cầm đầu. Phái đoàn thứ ba của đồng bào Thượng ở vùng Ban Mê Thuột, do Ma Krong ( tù trưởng Ê Ðê ) và y sĩ Djac Ayun”, ( Chính Ðạo, Việt Nam Niên Biểu, Tập 1A, trang 345 ).

Như vậy, vùng rừng núi Việt Nam, bị Pháp xẻ làm nhiều “nước tự trị”, không kể Miên, Lào. Mãi đến ngày 07/09/1946, theo hồi ký của Nam Ðình, phái đoàn Việt Nam yêu cầu phái đoàn Pháp tạm ngưng những điểm khác, để thảo luận lại các vấn đề “kinh tế tài chính, quan thuế, hai phái đoàn trao đổi văn kiện, cùng nhau thảo luận đêm 9 rạng 10/09/1946. Hai phái đoàn làm việc suốt đêm, chờ sáng ngày 10/9/1946 sẽ thảo ra tạm ước” ( tức Thỏa Hiệp Án 14/09/1946 ).

Ðến khi tái nhóm, phái đoàn Việt Nam yêu cầu giải quyết nhiều vấn đề khác, như yêu cầu Pháp hứa chắc chắn và rõ rệt về ngày giờ và cách thức trưng cầu dân ý ở Nam Bộ. Pháp không chịu cam kết, Việt Nam không chịu ký “tạm ước về tài chính, quan thuế”. Thế là hội nghị tan vỡ. Phái đoàn xuống tàu Pasteur về nước ngày 16/09/1946… Còn Hồ Chí Minh… Sainteny kể lại rằng: “Hồ Chí Minh rời khách sạn Royal Monceau, xuống Soisy Sous Montmorency, tạm trú tại biệt thự của Aubrac, viện lẽ nên xa Paris vài ngày cho không khí bớt căng thẳng… Nhưng trước khi rời Paris, ngày 14/09/1946, Hồ đến viếng Marius Moutet, Bộ Trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại, trao đổi thêm về bản Tạm Ước. Hồ Chí Minh cũng có đến thủ tướng Bidault tâm tình rằng: ‘Tôi làm sao ăn nói với các đảng đối lập với tôi, khi tôi về tay không?”.

Hồ C Minh và Marius Moutet đêm 14/9/1946 tại nhà riêng của Moutet, ký Thỏa Hiệp Án Fontainebleau.
Hồ C Minh và Marius Moutet đêm 14/9/1946 tại nhà riêng của Moutet, ký Thỏa Hiệp Án Fontainebleau.

Mãi đến nửa đêm ngày 14 rạng 15/09/1946, Hồ Chí Minh gõ cửa Moutet ở số 19 đường Courcelles, nhằm lúc Moutet còn thức.

— Tôi đến đây bằng lòng ký Tạm Ước ( Thỏa Hiệp Án ).

Thế là Tạm Ước được ký kết giữa Moutet và Hồ Chí Minh trong phòng ngủ của Moutet. “Hồ Chí Minh ra về, cùng đi với một thanh tra Pháp, đã đi theo hộ tống từ trước đến nay. Trong lúc đêm khuya lạnh lẽo, ông Hồ than với viên thanh tra mật thám Pháp:

— Tôi vừa mới ký một bản án tử hình của tôi!

Dưới đây là nguyên văn “Thỏa Hiệp Án” hay Tạm Ước 14/09/1946, được tờ báo Nam Kỳ số ra ngày 23/09/1946, đăng lại như sau:

═══════════════════════════════════════════════════

Nguyên văn bản Thỏa Hiệp Án:

Làm tại Paris ngày 14 Septembre 1946:

Thay mặt Chính Phủ Lâm Thời Pháp:

Tổng Trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại.

Ký tên:

Marius Moutet.

Thay mặt chính phủ Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam:

Chủ tịch chính phủ.

Ký tên:

Hồ Chí Minh.

Công nhận đúng theo bổn thảo

Tổng Thơ Ký Ủy Ban Ðông Dương

Ký tên:

Messmer.

“Toàn thể các điều dự định trong bản thỏa hiệp án nầy, làm thành hai bản, sẽ được đem ra thi hành vào ngày 30 Tháng Mười 1946.

Ðiều thứ I:

Kiều dân Việt Nam ở Pháp và kiều dân Pháp ở Việt Nam, sẽ được tự do sanh cư y như người bổn quốc, cùng những quyền tự do phát biểu, giáo dục, thương mại, thông hành. Tóm lại là tất cả tự do dân chủ.

Ðiều thứ II:

Sản nghiệp và xí nghiệp Pháp ở Việt Nam, sẽ không đặt dưới một chế độ gắt gao hơn chế độ dành cho sản nghiệp và xí nghiệp của người Việt Nam, nhứt là về thuế vụ và lao động pháp chế. Sự bình đẳng về quy điều này, sẽ được nhìn nhận bằng danh nghĩa đãi ngộ lẫn nhau, cho sản nghiệp và xí nghiệp của kiều dân Việt Nam, trong các lãnh thổ Pháp Quốc hải ngoại. Quy điều sản nghiệp và xí nghiệp Pháp ở Việt Nam, chỉ được sửa đổi bằng sự thỏa hiệp chung giữa Cộng Hòa Pháp và Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam.

Tất cả sản nghiệp Pháp bị chính phủ Việt Nam trưng thâu mà những tài chủ, hoặc những xí nghiệp bị nhà cầm quyền Việt Nam làm cho họ trở nên trắng tay, sẽ được quy hoàn cho những chủ nhơn và những người có quyền nhận lãnh.

Một ủy ban Pháp Việt sẽ được đề cử để quy định các thể thức quy hoàn nầy.

Ðiều thứ III:

Cho được phục hồi ngay bây giờ cuộc văn hóa giao tế mà Pháp Việt đồng muốn khuếch trương, các học đường Pháp, một vài đẳng cấp sẽ được tự do dạy ở Việt Nam.

Những học đường ấy sẽ áp dụng các chương trình chính thức Pháp. Về sau sẽ do hiệp định riêng mà chọn lựa những tòa nhà thích ứng cho sự dạy học của các học đường, những trường, những khoa học viện ở toàn cõi Việt Nam. Kiều dân Việt Nam ở Pháp cũng được hưởng y đặc quyền này. Y Viện Pasteur sẽ được phục hồi quyền lực và sản nghiệp của mình. Một ủy ban Pháp Việt sẽ quy định những điều kiện cho trường Viễn Ðông Bác Cổ hoạt động lại.

Ðiều thứ IV:

Mỗi khi có cần dùng những nhà cố vấn kỹ thuật và chuyên môn, thì chính phủ Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam, phải gọi đến Pháp kiều trước nhứt. Ðặc quyền ban cho Pháp kiều chỉ không có hiệu lực là khi nào nước Pháp không thể cung ứng nhân viên mà Việt Nam yêu cầu.

Ðiều thứ V:

Liền sau khi giải quyết vấn đề điều chỉnh tiền tệ, hiện thời chỉ có một thứ bạc chung đem ra xài trong các lãnh thổ thuộc quyền chính phủ Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam, và các lãnh thổ khác ở Ðông Dương. Thứ bạc ấy, chính là đồng bạc Ðông Dương, do nhà băng Ðông Dương phát hành hiện thời, để chờ lập ra một phát ngân viện. Ðiều lệ của cơ quan phát hành viện, sẽ do một Ủy Ban Pháp Việt nghiên cứu. Các nước có chơn trong liên bang, sẽ có đại biểu trong đó. Ủy Ban nầy còn có phận sự liên lạc tiền tệ và các sự mậu dịch. Ðồng bạc Ðông Dương được xài trong khu vực đồng phật lăng ( francs ).

Ðiều thứ VI:

Việt Nam sẽ cùng các xứ khác trong Liên Bang Ðông Dương, tạo thành một liên hiệp quan thuế. Tuy vậy, trong xứ sẽ không có một bức tường quan thuế nào cả. Việc xuất nhập lãnh thổ Ðông Dương đều dùng chung định giá. Một ủy ban liên lạc thương chánh và ngoại thương, cũng giống như ủy ban liên lạc tiền tệ và mậu dịch, sẽ nghiên cứu các biện pháp thi hành cần thiết và chuẩn bị tổ chức thương chánh ở Ðông Dương.

Ðiều thứ VII:

Một ủy ban Pháp Việt liên lạc về giao thông, sẽ nghiên cứu các biện pháp chánh để khôi phục và cải thiện cuộc thông thương giữa Việt Nam và các xứ khác trong Liên Bang Ðông Dương và Liên hiệp Pháp: vận tải đường bộ, đường biển, đường hàng không, sự thông gởi bằng bưu chánh, dây nói, điện tuyến và vô tuyến điện.

Ðiều thứ VIII:

Trong khi chờ đợi sự thành lập của bản hiệp ước hoàn toàn giải quyết xong vấn đề ngoại giao của nước Việt Nam với những nước khác, một ủy ban Pháp Việt sẽ định đoạt những điều giải hầu bảo đảm việc Việt Nam đặt lãnh sự ở các lân bang, và cuộc giao thiệp giữa lãnh sự ấy với các lãnh sự ngoại quốc.

Ðiều thứ IX:

Tha thiết bảo đảm càng sớm chừng nào càng hay chừng ấy, ở Nam Bộ và miền Nam Trung Kỳ, sự khôi phục một trật tự công cộng vừa cần thiết cho nguyện vọng tự do về các quyền tự do dân chủ vừa vãn hồi, và nhận định những phản động lực may mắn phát do sự ngưng những hành động xung đột và bạo động của đôi bên.

Chính phủ Pháp và chính phủ Cộng Hòa Việt Nam, đồng thảo các biện pháp sau đây:

  1. Ðôi bên chấm dứt tất cả những hành động xung đột và bạo động.
  2. Những hiệp định của các bộ tham mưu Pháp Việt, sẽ quy định các điều kiện thi hành và kiểm soát những biện pháp quyết định chung.
  3. Những tội phạm hiện còn bị giam cầm về nguyên do chính trị, sẽ được thả ra, chỉ trừ những kẻ bị truy tố về hình sự và thường phạm ( droit commun ). Với những tù binh bắt được trong các cuộc hành quân, cũng sẽ quy định y như thế. Việt Nam đảm bảo không truy tố bất cứ người nào đã cộng tác hoặc trung thành với Pháp Quốc, và chẳng dung tha bất cứ bạo hành nào chống những kẻ ấy. Bù lại, chính phủ Pháp cũng đảm bảo không truy tố bất cứ người nào cộng tác với Việt Nam, và không dung tha bất cứ bạo hành nào chống lại kẻ ấy.
  4. Việc hưởng các quyền tự do dân chủ giải thích ở điều khoản thứ I, sẽ được đôi bên đảm bảo lẫn nhau. Sẽ chấm dứt những sự tuyên truyền bất hữu ái của đôi bên.
  5. Chính phủ Pháp và chính phủ Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam, sẽ cộng tác với nhau, để làm cho kiều dân các nước nghịch cũ, không làm hại gì được nữa.
  6. Một nhân vật do chính phủ Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam đề cử, và được chính phủ Pháp công nhận, sẽ được gởi tới bên Thượng Sứ Pháp, để cộng tác và thi hành những điều thỏa thuận nầy.

Ðiều thứ X:

Chính phủ Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam, đồng ý chung tìm cách ký kết những hiệp định riêng về tất cả vấn đề có thể đưa ra hầu thắt chặt tình hữu nghị, và dọn đường để ký kết một hiệp ước chung vĩnh viễn.

Cuộc thương thuyết sẽ tiếp tục về mục đích nầy sớm chừng nào càng hay, và trễ lắm là vào Tháng Giêng 1947.

Ðiều thứ XI:

Toàn thể những điều khoản trong “Thỏa Hiệp Án” nầy chia làm hai bản, sẽ được thi hành vào ngày 30 Tháng Mười 1946.”

═══════════════════════════════════════════════════

Ðọc qua nội dung, chúng ta thấy rõ Hồ Chí Minh nhượng bộ Pháp gần như đầy đủ các quyền lợi như hồi Việt Nam còn là thuộc địa của nước Pháp. Ở vào hoàn cảnh lúc đó, người ta mới thấy sự thiệt thòi của Việt Nam. Với hiệp ước tạm 14/09/1946 hay “Tạm Ước” nầy, nước ta chỉ hưởng được những từ ngữ mới “Nước Việt Nam Cộng Hòa Dân Chủ”, được tự do, còn sự thật, người Pháp nắm tất cả mọi ngành, từ chính trị, quân sự, ngoại giao, quan thuế, tiền tệ. Lý do thầm kín là ông Hồ cần dựa vào Pháp, cần cộng tác với Pháp, để có thì giờ tận diệt người quốc gia. Với đảng cộng sản lúc đó ( dù trên danh nghĩa giả bộ giải tán từ Tháng Mười Một, năm 1945 ), nước Pháp không phải là kẻ thù trước mắt. Các đảng Ðại Việt, Quốc Dân Ðảng, Ðồng Minh Hội, Cao Ðài, Hòa Hảo, Trotkyst… tuy là đồng bào ruột thịt, cùng một mục đích tranh đấu giành độc lập, nhưng bị ông Hồ và Việt Minh coi như thù địch không đội trời chung. Ðó là chính sách, đường lối của ông Hồ và mặt trận Việt Minh, rồi Liên Việt. Vì cần bảo vệ sự độc quyền lãnh đạo của đảng Cộng Sản, ông Hồ phải bí mật tiêu diệt tả hữu, từ Trotkyst đến người quốc gia, không cho một mầm mống nào tồn tại.

Trong con mắt của ông Hồ thời đó, nước Pháp bấy giờ là “nước Pháp mới”, vì có tổng bí thư đảng cộng sản Pháp Maurice Thorez làm phó thủ tướng chính phủ. Trong chuyến đi Pháp lần này, ông Hồ còn đem theo 20kg vàng, tặng cho báo l’Humanité, cơ quan ngôn luận của đảng cộng sản Pháp, để họ làm cái loa ủng hộ ông ta và đảng CSVN. Vì thế khi vừa đặt chân lên Paris, ký giả Simonne Terry của l’Humanité liền viết một bài “l’Oncle Hồ” ( Bác Hồ ), để ca ngợi ông ta. Sự thật chính cái “nước Pháp mới” đã đổ bộ vào miền Bắc Việt Nam, đưa quân chiếm các vị trí hiểm yếu, đang sẵn sàng đè bẹp các cuộc chống đối của kháng chiến Việt Minh. Ðiều này có hại cho dân tộc Việt Nam, nhưng có lợi cho riêng ông Hồ và đảng cộng sản của ông ta.

Hồi các năm 1945-1946, Việt kiều tại Pháp có đoàn kết, nhưng không suy tôn, thờ phụng Hồ Chí Minh như thần thánh, không làm lễ sinh nhựt của ông ta như đảng CSVN mong muốn. Họ ủng hộ Việt Minh trong chừng mực nào đó, và phản đối ông Hồ trong “Thỏa Hiệp Án 14/09/1946”, cũng như Hiệp Ước Sơ Bộ ngày 06/03/1946.

Xin nhắc lại tình hình của người Việt tại Pháp hồi năm 1946. Khi ông Hồ sang Pháp, thì cộng đồng Việt kiều ở đây khoảng 14.000 ( mười bốn ngàn ) người, gồm lính thợ, công binh, một số ít gia đình, du học sinh có mặt ở Pháp. Cộng đồng Việt kiều có đoàn kết, nhưng không “đoàn kết trong mặt trận Việt Minh, không chịu nhận sự lãnh đạo của Việt Minh”. ( Xem thêm Ðặng Văn Long, Người Việt ở Pháp, trang VIII đến IX ). Cần phân biệt có hai thứ đoàn kết: Một là “đoàn kết trong mặt trận Việt Minh”, “đoàn kết chung quanh bác Hồ”. Còn đoàn kết theo nghĩa thông thường, để gây sức mạnh, thì lúc đó không còn nữa. Một người có nhiều kinh nghiệm về “đoàn kết” là ông Bùi Tín, viết: “Ðoàn kết trong mặt trận Việt Minh, trong mặt trận Liên Việt, hay trong mặt trận Tổ Quốc… có nghĩa là theo sự lãnh đạo của đảng cộng sản, vâng lời đảng cộng sản, chịu mọi sự áp đặt của đảng cộng sản. Nói khác với đảng, cãi lại đảng là ‘vi phạm tinh thần đoàn kết’, là nhằm cách phá vỡ khối đoàn kết, là có tội, có khi tội rất nặng” ( Mặt Thật, trang 120 ). Dù chưa có kinh nghiệm với Việt Minh, Việt kiều có lẽ cũng thấy rõ những âm mưu thầm kín của họ. Việt kiều chỉ đoàn kết để tranh giành độc lập cho nước Việt Nam, nhưng không tranh đấu dưới ngọn cờ của Việt Minh, của cộng sản.

Vì lẽ đó, khi vừa tới Pháp, ông Hồ tìm cách phá vỡ khối đoàn kết ( không chịu theo Việt Minh ). Ông tìm cách phá hoại sự đoàn kết của người theo chủ nghĩa quốc gia với những người Trotkyst, tức Cộng Sản Đệ Tứ, kẻ thù không đội trời chung của ông Hồ, tức Cộng Sản Đệ Tam. Tại Pháp, ông Hồ không thể dùng chính sách khủng bố để tiêu diệt những kẻ “không chịu đoàn kết trong mặt trận Việt Minh”. Ông Hồ sử dụng âm mưu về chính trị “kêu gọi công binh, Việt kiều hãy đoàn kết chung quanh bác Hồ”.

Sống lâu trên đất Pháp, người Việt nhiễm tư tưởng tự do, không bị gò bó như dưới chế độ thuộc địa. Họ tố cáo ông Hồ khi thấy ông để lộ gian ý “ủng hộ nước Pháp mới”, tức nước Pháp thực dân, chỉ vì có lãnh tụ cộng sản Pháp làm Phó Thủ Tướng chính phủ. Việt kiều cũng tố cáo “Liên Hiệp Pháp” chính là đế quốc trá hình mà ông Hồ không ngớt ca tụng…. Bây giờ, ông Hồ đường đường chính chính là chủ tịch nước, do quốc hội bầu cử gian lận ( xem Trần Trọng Kim, Một Cơn Gió Bụi, trang 104 ) tấn phong. Ông Hồ tìm mọi cách dựa vào đảng cộng sản Pháp để nhờ họ giúp đỡ. Khốn nỗi, khi chưa chiếm được chính quyền, đảng cộng sản kêu gọi “hãy giải phóng các dân tộc thuộc địa”, giải phóng giai cấp bị bốc lột. Ðến khi Maurice Thorez trở thành Phó Thủ Tướng chính phủ, còn nhiều đảng viên trở thành Bộ Trưởng, thì cộng sản Pháp liền trở mặt: “Cờ đại Pháp phải được cắm lại trên các thuộc địa” ( Thorez ). Báo l’Humanité, cơ quan ngôn luận của đảng cộng sản Pháp, số ra ngày 03/08/1944, ủy viên trung ương đảng cộng sản Pháp tuyên bố: “Nhân dân Pháp muốn rằng xứ Ðông Dương, cũng như các đại thuộc địa khác, sẽ trở về nước Pháp đầy đủ, không mất một tấc đất nào, để xây dựng một cộng đồng Liên Bang Ðại Pháp”. Tháng Giêng, năm 1945, tờ nhựt báo “Ce Soir”, cơ quan của đảng cộng sản nhấn mạnh: “Là một đại cường quốc, nước Pháp phải được tham gia vào cuộc chiến ở Thái Bình Dương. Là một đại cường quốc có thuộc địa, nó ( Pháp ) phải giữ lấy thuộc địa ở khắp nơi và tái chiếm Ðông Dương”. ( Ðặng Văn Long, Người Việt ở Pháp 1940-1954, trang XII ).

[
Lệ Thần Trần Trọng Kim, Một Cơn Gió Bụi, viết xong tại Nam Vang, Cambodia 01/05/1949. Không rõ nhà xuất bản. Bản PDF của sách được xuất bản:

http://www.tusachtiengviet.com/images/file/JIqCLGit1AgQACxO/mot-con-gio-bui.pdf
]

Hồ Chí Minh cử ông Trần Ngọc Danh ( em ruột Trần Phú ) làm đại diện chính thức cho chính phủ tại Pháp từ năm 1946. Ðể lôi kéo những người không thích cộng sản, Danh tuyên bố “Hồ Chí Minh không phải là người cộng sản”. Chưa hết, Danh còn cho in lại bài phỏng vấn của nhà báo Thụy Sĩ, trong đó Hồ Chí Minh nói: “Các bạn của Việt Nam đừng quá lo ngại, chủ nghĩa cộng sản không thể nào du nhập được ở xứ tôi”. Rõ ràng chính ông là cán bộ quốc tế cộng sản, đã đem chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam từ thập niên 1920, mà bây giờ ông lại phủ nhận điều đó. Quả thật, đây là thủ đoạn của ông Hồ. Ông nói láo không ngượng miệng. Nên nhớ khi, còn ở Tân Trào, ông tâm sự với mấy người Mỹ trong toán OSS, đang huấn luyện cho du kích của ông: “những cán bộ lãnh đạo Việt Minh, đã bị mật thám Pháp vu cáo là cộng sản”. ( Chính Ðạo, Hồ Chí Minh: Con Người. Huyền Thoại, trang 357 ). Còn trong báo “Ðộc Lập” ( tức cộng sản trá hình ) xuất bản ngày Thứ Ba 04/09/1945, trong danh sách chính phủ “quốc gia” liên hiệp, ông Hồ: chủ tịch kiêm ngoại giao “đảng quốc gia” ( Xin xem tờ báo đính kèm với bài nầy ).

( Chú thích của hoangkyblog: trang web mà chúng tôi tìm thấy bài viết này không có đính kèm bài báo vừa nêu. )

Qua Thỏa Hiệp Án nầy, cũng như trong Hiệp Ước Sơ Bộ ngày 06/03/1946, Hồ Chí Minh đã bán rẽ quyền lợi quốc gia dân tộc, kéo dài thêm cuộc kháng chiến, để củng cố quyền lãnh đạo của cộng sản. Chiêu bài “độc lập”, “tự do” cũng chỉ là những công cụ tuyên truyền lừa dối. Mặt trận Việt Minh, cũng như người sáng lập ra nó ( ông Hồ ), chỉ là một cái công ty chuyên môn lừa bịp, khủng bố, đàn áp, nhưng lại ngụy trang trong bộ mặt đấu tranh “giải phóng dân tộc”. Ngoài một số trí thức có nghiên cứu về chính trị, biết rõ thủ đoạn của cộng sản, còn đại đa số người dân, hay quần chúng Việt Nam, vì chưa có kinh nghiệm, lại nóng lòng vì độc lập, tự do, nên trở thành viên gạch lót đường cho Việt Minh cộng sản tiến tới mục đích cuối cùng của họ.

Nhận xét về “Thỏa Hiệp Án 14/09/1946”

Khoản thứ 1: Việt Nam lúc đó tự nhận là một quốc gia độc lập, có chủ quyền ( dù không một nước nào trên thế giới nhìn nhận ), mà lại nhường cho Pháp các quyền tự do như chính trong nước của họ là tại sao? Tạm ước cho phép người Pháp được tự do cư trú, đi lại sinh sống, ngôn luận, văn hóa, có khác nào như Pháp sống trên lãnh thổ của họ? Ðiều đó có nghĩa là hiện ta đang chiến đấu chống ngoại xâm, tự mình buông khí giới, dùng lời nói, giấy mực… tiến hành đánh Pháp. Lại còn cho Pháp tự do buôn bán, kinh doanh không giới hạn ở nước ta, thì như vậy có khác chi tình trạng một thuộc địa như trước đây? Trong lịch sử, chưa có một quốc gia nào chống ngoại xâm theo kiểu ấy.

Khoản thứ 2: Việt Nam đồng ý trao trả lại cho người Pháp tất cả xí nghiệp, tài sản… tất cả những thứ mà ta đã tịch thu của Pháp, như vậy là trái với cương lĩnh Mặt Trận Việt Minh từ năm 1941. Nói một đàng, làm một nẻo.

Hồi chưa chiếm được chính quyền, ông kết án chế độ Pháp tại Ðông Dương: “Tại các thuộc địa Pháp, cảnh khốn cùng và đói khát ngày càng gia tăng, nổi uất hận càng dâng cao, tinh thần phấn đấu của nông dân…”, vậy mà khi đã chiếm chính quyền, ông lại dễ dàng thỏa hiệp với Pháp, nhường cho Pháp đầy đủ các đặc quyền như thời thuộc địa, tại sao? Ðể Pháp tiếp tục đàn áp, bốc lột để thống trị Việt Nam thêm một thời gian nữa, đặng ông ta rảnh tay tiêu diệt đối lập trong Chính Phủ Liên Hiệp?

Khoản thứ 3: Cho Pháp tự do đặt chương trình giáo dục, mở trường học các cấp, dạy văn hóa Pháp không hạn chế, như vậy chủ quyền độc lập của Việt Nam ở đâu? Tại sao ông Hồ phải nhượng bộ các quyền lợi cho Pháp như vậy?

Khoản thứ 4: Khi cần, Việt Nam phải ưu tiên mướn chuyên viên của Pháp. Ðiều nầy giống như Việt cộng bây giờ buộc các công ty nước ngoài ở Việt Nam, phải thuê mướn người do đảng cộng sản giới thiệu là ưu tiên, là một điều kiện không bình đẳng.

Khoản thứ 5: Là nước tự do, nhưng Việt Nam chấp nhận không có tiền tệ riêng, phải xài chung đồng bạc của các xứ Liên Bang Ðông Dương. Tiền tệ do chính ngân hàng Ðông Dương của Pháp phát hành, chớ không phải của Việt Nam. Hơn nữa đồng bạc Ðông Dương phải phụ thuộc vào đồng franc ( phật lăng ) của Pháp. Như vậy đâu còn là một quốc gia tự do như đã khẳng định ở trên.

Khoản thứ 6: Việt Nam nằm trong Liên Hiệp Pháp về giao thông, vận tải, có nghĩa là Pháp tự do định đoạt, vì Việt Nam đâu có phương tiện, máy móc tàu bè gì? Về ngoại giao, Việt Nam muốn giao thiệp với ai, phải do Pháp quyết định, như vậy có khác gì thời thuộc địa? Tại sao ông Hồ lại chấp nhận cho chính phủ Pháp quyết định vấn đề ngoại giao của ta, trong khi ta không có quyền dòm ngó, can thiệp vào việc ngoại giao của Pháp?

Khoảng thứ 9: Việt Nam phải nhìn nhận cuộc kháng chiến ở Nam Bộ từ ngày 23/09/1945 đến 14/09/1946 là bất hợp pháp, là “phá rối an ninh trật tự”. Là người dân Việt Nam, quý độc giả nghĩ sao? Việt Nam tuyên bố chống Pháp giành độc lập, nhưng bây giờ ông Hồ hợp tác với Pháp toàn diện, thỏa mãn tất cả yêu sách của Pháp, như vậy ông Hồ phản bội quyền lợi dân tộc hay yêu nước như tuyên truyền? Ðình chiến mà không đặt điều kiện có nghĩa là quân Pháp đi tới đâu ta cũng không được đánh. Việc thả tù binh, theo định nghĩa “tù chính trị” cũng rất mơ hồ. Người Pháp đưa quân đến đây để dàn áp, chém giết nhưng người Việt Nam chống lại, bây giờ lại “ân xá” trong khi cuộc chiến còn tiếp diễn. Ngoài ra Việt Nam cũng như Pháp, phải chấm dứt tuyên truyền ác cảm chính là một sự lừa phỉnh. Ðiều nầy Pháp biết, ông Hồ biết, nhưng cứ giả bộ thành thật để dối gạt lẫn nhau, để ông Hồ có thì giờ khủng bố, sát hại đồng bào, vì yêu nước, tranh dấu giành độc lập như ông, nhưng không chịu “đoàn kết trong Mặt Trận Việt Minh” với ông mà thôi. Chiến tranh kiểu gì kỳ cục vậy? Các quyền tự do mà Pháp hứa cho Việt Nam chẳng qua là một sự rao hàng, phỉnh phờ, nhưng ông Hồ dùng nó làm vốn liếng để tuyên truyền đặng câu giờ để tàn sát những phần tử yêu nước, muốn tranh giành với Việt Minh.

Trên các sách báo từ năm 1945, Việt Minh luôn tự hào là một quốc gia độc lập “nhà nước công nông đầu tiên ở Ðông Nam Á”, nhưng lại chấp nhận tất cả mọi yêu sách của thực dân như hồi còn là thuộc địa. Dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của ông Hồ được mối lợi gì, chẳng qua chỉ là cái bánh vẽ. Ðối với ông Hồ, tất cả chỉ là phương tiện, nhưng có điều tất cả những phương tiện của ông Hồ sử dụng đều có hại cho quyền lợi quốc gia dân tộc quá nhiều. Chiến thuật có hại cho dân tộc chính là sự phản quốc. Mà ông Hồ dùng các chiến thuật phá nát đất nước, tàn bạo, giết hết người yêu nước, như vậy ông Hồ chính là kẻ phản quốc, chứ không có công trạng gì với đất nước như cộng sản thêu dệt, bịa đặt để khoa trương.

Là cán bộ cộng sản quốc tế thuần thành, ông Hồ thuộc nằm lòng các thủ đoạn của đàn anh. Ông mô phỏng các mánh mung ấy nhưng không nêu xuất xứ. Bọn đàn em cứ bịa đặt thành tích rồi râm ran ca tụng như thần thánh. Nào “Bác vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lê vào hoàn cảnh Việt Nam”, nào “tư tưởng Hồ Chí Minh”, sự thật tất cả chỉ là sự bịa đặt. Thủ đoạn ông Hồ bắt tay với Pháp để ký liên tiếp hai hiệp ước sơ bộ 06/03/1946 và thỏa hiệp án 14/09/1946, chỉ là sao y mánh khóe của Lenin sau cách mạng 1917 tại Nga. Mánh khóe ấy là “nhịn giặc ngoài để diệt thù trong”. Ðó là lý do Lenin ký hiệp ước Brest-Litovsk vào ngày 03/03/1918. Hiệp ước nầy cũng gần như đầu hàng Ðức Áo, để rảnh tay tiêu diệt kẻ nội thù của đảng cộng sản. Ông Hồ còn bắt chước chiến thuật “tiêu thổ kháng chiến” của Nga hồi Thế Chiến Thứ Hai. Tuy nhiên, vì quá nô lệ, ông không phân biệt được chỗ đúng và sai, Nga là quốc gia hàn đới, mùa đông cần chỗ trú ẩn, điện nước. Phá hủy nhà cửa, cắt điện nước, tức là làm cho quân địch phải tuyệt vọng vì không thể “sống ngoài trời, thiếu điện sưởi ấm và nước để uống. Còn áp dụng tiêu thổ kháng chiến ở Việt Nam, phá dinh thự, nhà cửa, không làm cho Pháp thiệt hại gì cả, vì họ đóng quân ngoài đường, trong rừng, có nước uống. Đó là sai lầm lớn và tội trạng của ông Hồ và Mặt Trận Việt Minh, vì tới nay, trên nửa thế kỷ qua, khắp nơi trên đất nước, còn nhiều cây cầu bị Việt Minh phá hủy, chưa khôi phục lại được. Còn các tổ chức Mặt Trận Việt Minh, nêu khẩu hiệu lừa bịp ‘Kháng Nhật cứu quốc’, cũng như các tổ chức ‘chiến khu’, ‘quân giải phóng’, ‘cứu quốc’, ‘Việt gian’ tất cả đều là sự rập khuôn, mô phỏng theo tổ chức của Mao Trạch Ðông. Ông Hồ không có bất cứ một sáng kiến gì cả. Lợi dụng thời cơ kẻ địch xâm lăng Việt Nam, Pháp, Nhật, ông Hồ và Mặt Trận Việt Minh đeo mặt nạ, lớn tiếng rêu rao ‘giải phóng dân tộc, chiến đấu giành độc lập, tự do’ tất cả đều là sự giả dối, có mục đích chiếm chính quyền, rồi tiến hành đưa đất nước vào quỹ đạo quốc tế cộng sản. Chớp được cơ hội Nhật đầu hàng, Pháp chưa trở lại, Việt Minh từ rừng sâu treo bảng cách mạng, nhảy lên địa vị chính phủ một cách bất hợp pháp, mưu đồ giành lấy chủ quyền độc tôn, để bành trướng chủ nghĩa cộng sản ra các lân quốc, theo sách lược của Cộng Sản Đệ Tam. Mọi sự nhân nhượng, cấu kết với Pháp qua hai hiệp ước kể trên, không phải do tình thế bắt buộc: đó là sự dự mưu đã được ông Hồ phác thảo từ lúc mới chuẩn bị cướp chính quyền”. ( Tưởng Vĩnh Kính, Hồ Chí Minh Tại Trung Quốc, Thượng Huyền dịch, trang 371- ).

Ông Hồ thà nhường cho Pháp tiếp tục thống trị Việt Nam thêm một thời gian, chứ không muốn cho các đảng phái Việt Nam khác, đứng ra lãnh đạo một nước Việt Nam độc lập”. Ðó chính là ý đồ thầm kín của ông Hồ. Các hành động của ông lúc nầy ( 1946 ), chỉ xoay quanh ý đồ cộng sản độc chiếm chính quyền mà thôi.

Ông Hồ gặp gỡ kiều bào trên đường về

Khi hay tin Hồ Chí Minh sẽ ghé thăm và nói chuyện về hiệp ước 14/09/1946, kiều bào Việt Nam tổ chức cuộc đón tiếp ngày 17/09/1946. Lúc đó ở Pháp, có tin đồn chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa sẽ bị ám sát trên đường về nước ( Ðặng Văn Long, Người Việt Ở Pháp, trang 117 ). Ðiều nầy đã chứng tỏ thái độ bất mãn của Việt kiều với ông Hồ. Trên đường xuống Toulon về nước, ông Hồ qua sân vận động, là chỗ 3000 Việt kiều tập họp để chào đoán phái đoàn. Ông Hứa Văn Nên đọc diễn văn, bày tỏ sự băn khoăn thắc mắc của kiều bào đối với Hiệp Ước Sơ Bộ 06/03/1946 và Thỏa Hiệp Án 14/09/1946. Lý do chính phủ nhượng bộ cho Pháp quá nhiều, gần như đầu hàng. Ông Nên nói:

Chúng tôi không chống đối việc thương thuyết, nhưng thấy chủ tịch nhường cho Pháp quá nhiều quyền lợi về kinh tế, chánh trị, hơn cả Hiệp Ước Sơ Bộ 06/03/1946.

Ðáp lại thái độ của công binh và của Việt kiều hồi ấy, Hồ Chí Minh không một lời nói đến sự lo ngại của công binh, mà bắt đầu bằng một sự kiện khác:

Hội nghị Fontainebleau tuy không thành công, nhưng là một thắng lợi của phái đoàn quốc hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Không thành, nhưng hội nghị Fontainebleau là một thắng lợi của nhân dân ta, thắng lợi của toàn thể nhân dân yêu chuộng hòa bình ở khắp thế giới.

Thay mặt chánh phủ và quốc hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do toàn dân bầu cử ( chỗ nầy sai, chỉ có miền Bắc và vài tỉnh Trung Kỳ, mà bầu cử gian lận ), tôi khuyên kiều bào là công việc chánh trị để cho những người chuyên môn giải quyết, kiều bào hãy cố gắng chăm lo học lấy một cái nghề tinh xảo, để góp vào việc kiến thiết quốc gia. Ðất nước chúng ta cần đến những người con có nghề nghiệp tinh xảo.

Tôi nhắc lại một ý kiến mà kiều bào đã biết là nước ta như người có ruộng mà không có thóc, nước Pháp là người có thóc mang sang trồng ở ruộng ta, đến vụ gắt hái đem chia đôi, hai bên cùng có lợi, có phải như thế không? Kiều bào hiểu chưa?” Không một tiếng trả lời. Hồ Chí Minh nhắc lại “Kiều bào hiểu chưa?”. Hơn 3.000 ( ba ngàn ) người im phăng phắc, ngoài một tiếng phía gần cuối hàng vụt lên “hiểu rồi”. Ðó là tiếng nói của một công binh Cơ ngoại hạng tên Nguyễn Văn Trọ” ( Ðặng Văn Long, sđd. trang 117 ).

Còn tờ báo Nam Kỳ, số ra ngày thứ hai 23/09/1946, vừa binh vực Pháp, vừa khen ông Hồ như sau:

May thay, ở phương Bắc, còn có người biết quý sinh mạng của thanh niên Pháp và Việt Nam, còn có người biết nhân nhượng, còn có người biết cố gắng, còn có người chịu khó tìm hiểu nhau, người đó là cụ Hồ Chí Minh, ông Vũ Hồng khanh và ông Sainteny ba người đã ký hiệp ước Pháp Việt ngày 6/3/1946”.

Nhưng cùng với sơ ước 06/03/1946, thuyết chia rẽ ra đời, làm cho cuộc xung đột Pháp Việt kéo dài, ở Nam bộ “Hội nghị Ðà Lạt, hội nghị Fontainebleau không thành, người ta đã tưởng tượng tới cảnh núi xương sông máu cùng khắp non sông nước Việt. Song vẫn có người sáng suốt thấy xa, vẫn có người thành thật muốn hiệp tác và chấm dứt cuộc đổ máu tai hại cho cả đôi bên, nên đồng ý ký hiệp ước tạm thời 15/09/1946 ( nguyên bản ) để cứu vãn tình hình nghiêm trọng, chấn chỉnh nhân tâm, phục hưng kinh tế trong khi chờ sang năm 1947, ký một hiệp ước vĩnh viễn. Người đó lại là cụ Hồ Chí Minh với ông Bidault, thủ tướng Ðệ Tứ Cộng Hòa Pháp…”.

Chắc chắn lời khen nầy không giá trị, vì chỉ cuối năm, chiến tranh bùng nổ. Hai bên Pháp và Việt Minh đều bịp lẫn nhau, nhưng giả bộ như thật, để chuẩn bị mở rộng chiến tranh. Chỉ có người quốc gia theo chủ nghĩa dân tộc bị thiệt thòi. Lý do, ông Hồ tạm hòa với Pháp, để tiêu diệt người cùng đoàn kết với mình trong chính phủ liên hiệp. Ðó là ý đồ thầm kín của ông Hồ và thực dân Pháp.

Còn dưới đây là ý kiến của một nhân chứng thời cuộc, đã tham dự vào Mặt Trận Việt Minh, chúng ta càng thấy rõ thủ đoạn của ông Hồ:

Làm thế nào biết được khi ông ta ( Hồ ) lầm lũi trong đêm khuya đến nhà riêng xin ký với Marius Moutet? Làm thế nào biết được khi ông ta ( Hồ ) cho Pháp tất cả mọi điều Pháp muốn, từ đồng bạc đến nền ngoại giao, khi một người đàn bà vô học, cứ van lạy không thôi, cũng đòi lại đôi chút quyền lợi, nhiều hơn tạm ước 14/09”. ( Nguyễn Kiên Trung, Ðem Tâm Tình Viết Lịch Sử, trang 79 ).

( Chú thích của hoangkyblog: Nguyễn Kiên Trung một bút hiệu khác của văn hào Nguyễn Mạnh Côn, tác giả của “1945 Lạc Đường Vào Lịch Sử”. )

Thắng lợi tại quê nhà

Như trên đã nói, ông Hồ và hai đoàn dân biểu, bộ trưởng vừa thành lập chính phủ, đã kéo rốc sang Pháp, kể chủ tịch mới được tấn phong. Công việc nước nhà bề bộn: Pháp đưa quân chiếm đóng các tỉnh miền Bắc, chiếm các vị trí hiểm yếu. Nội bộ Việt Nam cũng rối ren không kém. Các đảng còn tranh chấp nhau, tố cáo lẫn nhau vì chánh phủ nói một đàng làm một nẻo. Nước Pháp cũng rối ren, chưa sẵn sàng đón tiếp quốc khách công du. Tuy vậỵ, ông Hồ vẫn cứ đi, đi cho vắng mặt tại Việt Nam. Ông đã có mưu đồ thầm kín. Các bộ trưởng của chính phủ mới cũng đi để khỏi thấy cảnh đồng viện, đồng bộ trưởng ở nhà đang bị sát hại bởi cái chính phủ mà họ đang tham gia.

Vừa về tới Hà Nội, Hồ Chí Minh họp báo tuyên bố: “Chúng tôi quyết đoạt được độc lập, nhưng chúng tôi cũng quyết định sống trong Liên Hiệp Pháp ( chú thích: đế quốc trá hình ). Nước Pháp yêu chuộng dân chủ và tự do. Không lý do nào mà Pháp từ chối. Tôi dám cam kết rằng chính phủ Pháp đã có ý định thi hành nghiêm chỉnh tạm ước vừa ký kết”. Chỉ 3 tháng sau, Pháp tấn công toàn diện! “Tạm ước nầy rất cần thiết, tiện sự giao hảo giữa hai nước Pháp Việt, trước khi hội nghị tháng giêng tới đây.” ( Nam Ðình, Tài Liệu Lịch Sử, trang 364 ).

Rõ ràng lời tuyên bố của ông Hồ đều hoàn toàn xảo trá. Các sự kiện xảy ra sau đó mấy tháng đã chứng minh sự thật.

Về tới Hà Nội, điều đầu tiên ông Hồ hài lòng là tất cả nhân vật thuộc các đảng quốc gia tham dự chính phủ liên hiệp đều bị loại: kẻ bị giết, người bị bắt cóc thủ tiêu, người bị giam cầm nơi kín đáo, còn người nhanh chân thì đã vượt biên sang Trung Hoa. Bây giờ Việt Minh một mình một chợ. Ðảng Dân Chủ vẫn được giữ lại làm bình phong để Việt Minh ngụy trang trong đó. Như vậy, ông Hồ phải lập chính phủ mới với các thành phần mới trong Mặt Trận Liên Việt, tổ chức cộng sản trá hình thứ hai, để thế giới không thấy rõ cả chính phủ đều là cộng sản!

Vì thế quốc hội nhóm càng sớm càng tốt. Ông Hồ âm thầm ra lịnh triệu tập quốc hội vào ngày 28/10/1946.

Trước ngày nhóm quốc hội, Võ Nguyên Giáp bố ráp một lần nữa, bắt hết cán bộ của những đảng đối lập, nên từ ngày 23 đến 27 Tháng Mười, có hơn 200 người “tình nghi đối lập” bị bắt và bị thủ tiêu như Vũ Ðình Chí, biên tập viên báo Việt Nam ( Quốc Dân Ðảng ), thường viết bài xã thuyết chống Việt Minh, chống lập trường của chính phủ.

Sau đợt nầy, không còn dối lập nữa. Ðúng ngày 28/10/1946, quốc hội nhóm tại Nhà Hát Lớn. Lần nầy chỉ còn 210 dân biểu hiện diện, 70 dân biểu đối lập thì lớp bị thủ tiêu, hoặc đang trốn, nay còn lại không quá 20 người và cũng ngã theo Việt Minh.

Ba ngày đầu, không có gì quan trọng. Ngày thứ tư 31/10/1946, Hồ Chí Minh ra trước quốc hội trình bày những hoạt động của chính phủ từ 6 tháng nay, để rồi từ chức, ông viện lẽ “tình hình biến chuyển, cần có một chính phủ mạnh mẽ hơn để đối phó mọi biến cố”.

Quốc hội hoan nghinh ( vì toàn thể đều là Việt Minh của ông Hồ ), rồi biểu quyết tặng Hồ Chí Minh danh hiệu “công dân thứ nhứt Việt Nam”, đồng ý giao cho Hồ Chí Minh lập chính phủ khác. Ba ngày sau ( ngày 3 Tháng Mười Một ), Hồ Chí Minh lại ra trước quốc hội trình thành phần chính phủ mới:

  • Hồ Chí Minh: Chủ Tịch kiêm Ngoại Giao. Vài ngày sau, Hoàng Minh Giám được cử làm Thứ Trưởng.
  • Võ Nguyên Giáp: Bộ Quốc Phòng.
  • Tạ Quang Bửu: Thứ Trưởng Quốc Phòng.
  • Huỳnh Thúc Kháng: Bộ Nội Vụ.
  • Hoàng Hữu Nam: Thứ Trưởng Nội Vụ.
  • Phạm Văn Ðồng: Thứ Trưởng Kinh Tế.

Chắc quý độc giả cũng thấy vắng các vị như Nguyễn Tường Tam ( Việt Nam Quốc Dân Đảng ), Nguyễn Hải Thần ( Ðồng Minh Hội ), Vũ Hồng Khanh. Cả ba đã trốn sang Tàu! Còn bác sĩ Trương Ðình Tri ( Ðồng Minh Hội ) cũng bị loại ra khỏi hàng ngũ.

Nghiêm Kế Tổ thì tự ý rút lui vì hiểu rõ tâm địa cộng sản. Ðó là bề mặt. Quyền hành thực sự nằm trong tay Tổng Bộ Việt Minh, tức trung ương Đảng Cộng Sản: đó là các ông Hạ Bá Cang, Trần Huy Liệu, Trường Chinh, Trần Ðăng Ninh.

Bước thứ nhất đã được ông Hồ thực hiện: loại tất cả đối lập trong chính phủ. Có điều ông khéo ngụy trang: vắng mặt để Giáp ngụy tạo tội trạng, tấn công các đảng quốc gia. Việt Minh truy đuổi họ đến tận biên giới Lào Cay hay Lạng Sơn để thực hiện việc “Việt Minh độc chiếm chính quyền, không chia xẻ với bất cứ ai”.

Sách Hồ Sơ Ðệ Tứ Việt Nam thuộc Tủ sách Nghiên Cứu Paris 2000, trang 13 viết “Cũng đi từ quan niệm độc quyền lãnh đạo, ông Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam đã mở cuộc diệt trừ tả hữu từ Trotkyst đến quốc gia, không cho một mầm mống nào đối lập có thể trồi lên được”. Trước đó mấy tháng, cuối năm 1945 đầu 1946, chính ông Hồ van nài các đảng đối lập “hợp tác tịnh thành với Việt Minh”, bây giờ chính ông triệt hạ họ một cách tàn bạo. “Ðoàn kết” thực tế là như vậy.

Theo chủ trương che giấu sự thật lịch sử, bưng bít các hành động phản bội và phản quốc của mình, ông Hồ và Đảng Cộng Sản Việt Nam không bao giờ dám cho đăng lại toàn bộ nội dung các bản hiệp ước: Hiệp Ước Sơ Bộ 06/03/1946, Thỏa Hiệp Án 14/09/1946.

Bản chúng tôi có trong tay do báo Nam Kỳ, thân Pháp, không phải của Việt Minh ở Sài Gòn, đăng lại. Ðiều nầy cũng giống như việc Đảng Cộng Sản Việt Nam đã ký kết hai hiệp ước bán nước, dâng đất, lãnh hải cho Trung Cộng mới đây.

( VNNB, 26/09/2002 )

Tác Giả: Hứa Hoành.

Nguồn:

http://www.danchu.net/ArticlesChinhLuan/Collection4/HuaHoanh4001.htm

http://www.geocities.ws/xoathantuong

Phần 6/6: Giới thiệu sách: “THẤT BẠI VĨ ĐẠI – Sự Ra Đời Và Cái Chết Của Chủ Nghĩa Cộng Sản Trong Thế Kỷ XX” của Zbigniew Brzeziński. Tác Giả: Từ Liên.


Sự thất bại của chủ nghĩa cộng sản, xét đến cùng là về mặt trí tuệ. Nó đã bắt nguồn từ một nhận thức sai về lịch sử và về bản chất con người, nó không coi trọng nguyện vọng cơ bản của con người là tự do cá nhân, để tự biểu hiện về mặt nghệ thuật và trí tuệ.

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRUNG QUỐC và SỰ HẤP HỐI CỦA CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN TRÊN TOÀN THẾ GIỚI

Khác với học thuyết cộng sản tương đối “thuần khiết” được áp dụng ở Liên Xô ở giai đoạn đầu, khi tới Trung Quốc, trừ một vài giai đoạn hết sức ngắn ngủi ban đầu, thứ chủ nghĩa này sau đó chỉ còn duy trì được mỗi tên gọi mà bên trong đã chứa đựng một nội dung khác xa với ý nghĩa ban đầu. Chủ nghĩa cộng sản kiểu Trung Quốc, chỉ giữ lại phần tồi tệ nhất trong học thuyết của nó [ cách cai trị tập thể, đảng độc tài nắm trong tay toàn quyền kinh tế và quyền sinh sát với dân chúng, đồng hóa áp bức toàn bộ những sắc dân sống trên lãnh thổ của mình bằng một hệ tư tưởng đầy tham vọng và giáo điều ], đã kết hợp một cách hòa bình với tư tưởng Khổng Giáo của thời phong kiến, và kết hợp khéo léo với chủ nghĩa thương mại thực dụng kiểu Trung Hoa… Sự kết hợp này, đã khiến mô hình Trung Quốc trở nên tương đối độc lập với mô hình Liên Xô.

Mặt khác, nó cũng chứa đựng trong mình nhiều vấn đề tiềm ẩn giống như Liên Xô đã phải đối mặt vào những năm cuối cùng trước khi chủ nghĩa xã hội và Đảng Cộng Sản Liên Xô lâm vào khủng hoảng và sụp đổ toàn diện. Ba trong số những vấn đề nổi bật là:

  1. Quyền lực độc đoán của Đảng Cộng Sản bao trùm trên một khu vực rộng lớn [ Trung Quốc có diện tích lớn thứ ba trên thế giới ], trong đó có nhiều sắc dân chung sống, và không phải sắc dân nào cũng đồng ý với sự thống trị của Trung Cộng, không phải sắc dân nào cũng thừa nhận rằng nền văn hóa của “Hán Tộc” là “cao” hơn hay “đặc sắc” hơn văn hóa của họ. Điều này khiến cho xu hướng đòi quyền dân tộc tự quyết luôn luôn chờ đợi để bùng nổ.
  2. Đảng độc tài toàn trị trong một thời gian dài nắm quyền, đã lan tỏa những chân rết của nó tới những hang cùng ngõ hẻm của xã hội, trong mọi lĩnh vực. Những chân rết này được nuôi dưỡng bởi những quyền lực và lợi ích nhóm do Đảng ban phát, mà đứng đầu là các thành viên cao cấp của Đảng và thân hữu của họ. Điều này khiến một nhóm nhỏ người mạnh lên nhờ bóc lột và tham nhũng, trong khi phần lớn xã hội bị chèn ép và đối xử bất công. Những tiếng nói đòi hỏi nhân quyền và dân chủ chỉ cần có môi trường và hoàn cảnh là trỗi dậy mạnh mẽ.
  3. Vấn đề thứ hai là: Bài toán hóc búa chưa có lời giải đáp giữa khát khao phát triển kinh tế và đòi hỏi cải tổ chính trị, điều mà Liên Xô sau vài thập niên loay hoay vẫn chưa có câu trả lời thuyết phục cho chính họ.

Chủ nghĩa cộng sản kiểu Trung Quốc:

Những điều kiện của Trung Quốc và lịch sử của Trung Quốc khác xa với nước Nga, đã dẫn tới con đường xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Trung Quốc không diễn ra theo cùng một cách như ở Liên Xô… Trong khi nước Nga bước lên vũ đài của chủ nghĩa cộng sản từ một xã hội tư bản nửa phong kiến vào năm 1917, thì Trung Quốc đã có thời gian tiếp nhận một vài kinh nghiệm của các cuộc cách mạng xảy ra từ đầu thế kỷ XX. Có ba nhân vật đã được ghi lại trong quá trình dò đường này của Trung Quốc: Tôn Dật Tiên, Tưởng Giới Thạch và Mao Trạch Đông. Mỗi người trong ba người đó đều mượn những tư tưởng chính trị từ thế giới bên ngoài nhằm dựng lên một phong trào và một học thuyết với mục đích khôi phục sự vĩ đại của Trung Quốc trong quá khứ.

Tôn Dật Tiên / Sun Yat-sen / 孫中山, 孫逸仙, 孫文.
Tôn Dật Tiên / Sun Yat-sen / 孫中山, 孫逸仙, 孫文.

Cuộc cách mạng mang màu sắc Cộng Hòa năm 1911 của Tôn Dật Tiên là một ý định nhằm áp dụng vào điều kiện Trung Quốc những khái niệm của phương Tây như Chế Độ Lập Hiến, Chế Độ Cộng Hòa. Chủ nghĩa dân tộc của ông ta một phần cũng chịu ảnh hưởng sự thành công của Nhật trong việc áp dụng những thành tựu của phương Tây trong công nghiệp và trong tổ chức xã hội. Việc này cũng đã gặp nhiều khó khăn và phản đối trong giai đoạn đầu tiên. Tuy nhiên, nó cũng để lại những thành tựu nhất định.

Tưởng Giới Thạch / Chiang Kai-shek / 蔣中正, 蔣介石.
Tưởng Giới Thạch / Chiang Kai-shek / 蔣中正, 蔣介石.

Cuộc cách mạng của Tưởng Giới Thạch cũng là một mưu toan nhằm vận dụng những khái niệm hiện đại của phương Tây vào những điều kiện hỗn loạn của Trung Quốc. Tuy nhiên, Tưởng đã chọn kết hợp Chủ Nghĩa Dân Tộc với chủ nghĩa Marx thành một tình cảm thống nhất. Bản thân Tưởng cũng được Liên Xô huấn luyện và cũng đã một thời cộng tác với những người cộng sản Trung Quốc trong cuộc đấu tranh cho một nước Trung Hoa mới.

Sự hợp tác đó chấm dứt năm 1927 với sự thất bại của cái gọi là Mặt Trận Thống Nhất, mở đầu cho gần hai mươi năm liên tục đấu tranh với những người cộng sản.

Mao Trạch Đông / Mao Zedong / 毛泽东.
Mao Trạch Đông / Mao Zedong / 毛泽东.

Sự thất bại của Tưởng ở Đại Lục mở đường cho một lực lượng khác nổi lên thay thế. Phong trào mới này đã động viên được dân chúng đông đảo ở Đại Lục nhờ vào việc họ có thể kết hợp một cách khéo léo những thất vọng, cả về mặt dân tộc lẫn xã hội của nước Trung Hoa cận đại. Phong trào đó được xác định rõ ràng hơn về mặt học thuyết, và được xây dựng trên cơ sở một tổ chức chính trị có kỷ luật và hiệu quả hơn. Đó là phong trào được cộng sản và Hồng Quân đứng đầu là nhà Marxist Mao Trạch Đông lãnh đạo, từ giữa những năm 1930s với tên gọi cuộc Vạn Lý Trường Chinh.

Marx Lenin Stalin Mao.
Marx Lenin Stalin Mao.

Khi Đại Hội Đảng Cộng Sản Trung Quốc Lần Thứ 7 diễn ra ở tổng hành dinh Hồng Quân tại Diên An cuối mùa xuân năm 1945, khoảng 4 năm trước khi cộng sản Trung Quốc giành được thắng lợi cuối cùng, sự đóng góp về hệ tư tưởng của Mao đã được hoan nghênh như là “tư tưởng Mao Trạch Đông” và được nâng lên tầm cỡ những nguyên tắc chỉ đạo Đảng và được coi là sự phát triển tiếp theo của chủ nghĩa Marx-Lenin-Stalin. Hành động đó biểu lộ không những tính kiêu ngạo to lớn về mặt tri thức của Mao mà còn là sự tự tin về mặt chính trị của những người cộng sản thế hệ đầu của Trung Quốc.

Điểm khác biệt giữa những nhà lãnh đạo Đảng Cộng Sản ở Nga và ở Trung Quốc thể hiện ở một số điểm sau:

Những người đi tìm sự đổi mới cho Trung Quốc là những người thấm nhuần lịch sử của đất nước, và đặc biệt là tư tưởng Khổng Giáo, trong đó nhấn mạnh kỷ luật và sự cai trị thường trực bởi một giai cấp quan lại vượt trội hơn hẳn về mặt đạo đức và tinh thần, đối với toàn bộ dân chúng trên lãnh thổ Trung Hoa [ Trong khi đó, điều này không được thừa nhận rõ ràng ở Liên Xô ].

Điều quan trọng hơn là, với tư cách những người thừa kế nền văn minh cổ với vài ngàn năm của Trung Quốc, họ có lòng tự tin về tri thức và văn hóa để tạo ra kinh nghiệm cách mạng của chính họ và vạch ra chiến lược của chính họ. Họ đã thực hiện một cuộc tiến công cách mạng và đã giành được thắng lợi hoàn toàn vào năm 1949.

Đây là một sự trái ngược hoàn toàn với kinh nghiệm của những người lãnh đạo Liên Xô cũng như những người đồng chí Đông Âu phụ thuộc vào Liên Xô. Phần lớn những người Đông Âu xem sự thống trị của Nga như là một sự thụt lùi về mặt văn hóa.

Những điều này được kết hợp một cách vá víu với học thuyết cộng sản và kinh nghiệm trước đây của cộng sản Liên Xô, đã tạo ra bước khởi đầu cho những cố gắng đầu tiên nhằm xây dựng lại Trung Quốc. Tuy nhiên, sau ba cuộc thử nghiệm to lớn của Mao ( trong đó cái giá phải trả cho hai cuộc thử nghiệm là hết sức đắt ) để đưa Trung Quốc đi theo mô hình của Liên Xô nhưng không thành công. Thêm vào đó, sự nhận thức dần dần về thất bại của mô hình cộng sản chính thống, những người kế nhiệm Mao đã “thức tỉnh” và quyết tâm lớn hơn trong việc tạo ra một học thuyết cộng sản riêng kiểu Trung Quốc nhằm lấp bỏ khoảng cách lịch sử rộng lớn và đầy bất lợi cho Trung Quốc trong bối cảnh mới của thế giới. Hình ảnh tiêu biểu khởi xướng cho sự thức tỉnh này là Đặng Tiểu Bình.

Đặng Tiểu Bình / Deng Xiaoping / 邓小平.
Đặng Tiểu Bình / Deng Xiaoping / 邓小平.

Điểm then chốt tạo ra sự khác biệt trong mô hình riêng này của Trung Quốc được tìm thấy trong truyền thống văn hóa lịch sử của họ. Nền văn hóa phong kiến lâu đời của Trung Hoa với những phiên bản Nho Giáo khác nhau làm trụ cột, đã chia sẻ những điểm chung quan trọng với học thuyết của chủ nghĩa cộng sản. Tư tưởng nhà nước với một vị hoàng đế tối cao thống trị, và được thờ phụng tương đương với những vị thần linh, cộng với việc coi người dân như những thần dân được cai trị trực tiếp bởi một bộ máy quan lại quan liêu và hách dịch là điều đã được chấp nhận hàng ngàn năm trong lịch sử Trung Hoa. Trái với Đông Âu bác bỏ một cách tự nhiên chủ nghĩa cộng sản, Trung Quốc chấp nhận một cách tự nhiên chủ nghĩa cộng sản do những truyền thống và giá trị lâu đời của đất nước đã hun đúc.

Cũng khác với những đồng chí trong khối Xô Viết, sự hấp dẫn về hệ tư tưởng cộng sản kết hợp với Khổng Giáo của Trung Quốc đã hấp dẫn dân chúng của họ không phải chỉ vì họ đã đánh trúng vào tâm lý của quần chúng nông dân đang khao khát về ruộng đất và những công nhân đang bất mãn với sự bóc lột của giới chủ công nghiệp trong giai đoạn đầu tiên của nền công nghiệp, mà còn do họ biết khoét sâu vào những tình cảm sâu sắc về lòng yêu nước đã bị xúc phạm và rằng Trung Quốc đã bị làm nhục bởi những đế quốc phương Tây trong hàng trăm năm, rồi lại tiếp tục với việc Nhật xâm lược Trung Quốc. Những điều đó đã kích thích nhiều người Trung Quốc vốn tự hào về nền văn hóa của mình có những tình cảm bất bình mãnh liệt với cả những người nước ngoài đáng ghét và những người lãnh đạo của họ đầy quyền uy nhưng thoái hóa và bất lực.

Sự tài tình của Chủ nghĩa cộng sản Trung Quốc là họ đã có thể pha trộn hai cái đó thành một công thức, trong đó chủ nghĩa yêu nước tự giác và chủ nghĩa cộng sản không phải là những mệnh đề loại trừ lẫn nhau. Như vậy là, đối với nhiều người Trung Quốc, thắng lợi của cộng sản cũng đồng thời tiêu biểu cho sự giải phóng dân tộc khỏi sự thống trị đáng căm ghét của ngoại bang. Trong khi đó, ở Đông Âu do Liên Xô thống trị, nơi mà đối với nhiều người, chủ nghĩa cộng sản lại có nghĩa là họ phải phục tùng quyền lực của “nước ngoài”.

Điều đó đã dẫn tới thực tế: Trong mỗi giai đoạn tiếp nối nhau, chính sách của cộng sản Trung Quốc ngày càng ít bị chi phối bởi những giáo huấn hệ tư tưởng chung các nước xã hội chủ nghĩa khác, đặc biệt là của Liên Xô, và ngày càng chịu ảnh hưởng nhiều hơn của ý đồ vận dụng học thuyết đó vào những điều kiện riêng biệt của Trung Quốc, đặc trên nền tảng của những truyền thống đã có, và những nhu cầu của dân tộc đã được xác định một cách thực dụng.

Ít người phương Tây có thể đánh giá được đầy đủ khoảng cách đã phát triển trong thế kỷ XIX giữa một bên là cảm nhận của người Trung Quốc về nền văn minh độc đáo, cao hơn hẳn về mặt văn hóa ( họ cho là như vậy ) và bên kia là ý thức của người Trung Quốc về sự yếu kém của họ khi đối diện với những sự làm nhục mà những cường quốc nước ngoài đã cố ý gây ra cho họ.

Giai đoạn Trung Quốc bắt chước Liên Xô như vậy là rất ngắn ngủi. Trong những năm đầu sau thắng lợi của cách mạng, Trung Quốc cũng bắt chước công cuộc công nghiệp hóa đầu tiên của Liên Xô do Nhà Nước chỉ đạo ( Đại Nhảy Vọt ). Đất nước lao vào một chương trình công nghiệp hóa đầy tham vọng với một lòng tin được đơn giản hóa đến cao độ về những lợi ích kỳ diệu về mặt xã hội của công nghiệp nặng. Để đạt được mục đích đó, viện trợ và kỹ thuật của Liên Xô đã được nhập khẩu càng nhanh càng tốt, y như kế hoạch 5 năm lần đầu tiên thời Stalin. Cố vấn Liên Xô tràn ngập đất nước, sinh viên Trung Quốc lũ lượt kéo sang các trường đại học Xô Viết, và những thành tựu của Liên Xô được tán dương trên báo chí Trung Quốc. Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, kinh nghiệm của Liên Xô đã bị thừa nhận là đã phá sản tại Trung Quốc, trong Hội Nghị Trung Ương Bất Thường Lần Thứ Hai của Đại Hội Đảng Lần Thứ 8 vào Tháng Năm, 1958.

Để biện minh cho sự thất bại đó, Mao cần đến một giải pháp tạm thời khác. Tháng Chín, 1956, những người lãnh đạo Đảng Cộng Sản Trung Quốc tuyên bố một cách tùy tiện tại Hội Nghị Trung Ương Lần Thứ Nhất của Đại Hội Đảng Lần Thứ 8, rằng Trung Quốc đã hoàn thành những mục tiêu vĩ đại của Đại Nhảy Vọt, và đã bước vào “giai đoạn phát triển” trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những cố gắng cuồng nhiệt và tàn bạo nhằm cấu trúc lại nông dân Trung Quốc thành cái gọi là CÔNG XÃ NHÂN DÂN đã tạo ra một tai họa với quy mô to lớn. Hàng triệu nông dân, ước chừng là 27 triệu, đã chết do phải di chuyển nơi ở, do bị đàn áp bởi bạo lực và nạn đói.

Đến cuối những năm 1950, khi mối quan hệ giữa Trung Quốc và Liên Xô rạn nứt mọi viện trợ của Liên Xô đã chấm dứt, chuyên gia Liên Xô đột ngột rút về nước, những phụ tùng thay thế của Liên Xô không có nữa, Trung Quốc đột nhiên ý thức được mình phải hoàn toàn dựa vào bản thân mình.

Từ giữa những năm 1960, trước sự chỉ trích từ bên ngoài của Liên Xô và một số mầm mống nổi dậy đã xuất hiện ở trong nước, Mao đã tiến hành một công cuộc “thanh lọc” bị gọi chệch đi là Cách Mạng Văn Hóa. Bạo lực bao trùm lên toàn bộ Trung Quốc. Mao già nua và bất lực thúc giục những người dưới quyền tiêu diệt lẫn nhau trong một quá trình có ngụ ý là “thay máu” cách mạng, là những cuộc đấu tranh trong nội bộ Đảng nhằm chống lại bọn quan liêu cầm quyền và những truyền thống của quá khứ. Kinh nghiệm Liên Xô lúc này bị tố cáo thẳng thừng và bị coi là chủ nghĩa xét lại phản cách mạng.

Kết quả là, từ 1966 đến giữa những năm 1970, Trung Quốc đã trải qua một loạt các cuộc thanh trừng tàn bạo, giết hại hàng trăm nghìn cán bộ Đảng và những chỉ huy quân sự ( trong đó có một số nhân vật của cuộc trường chinh và của cách mạng Trung Quốc ) rất được kính trọng, bắt giam và đưa đi đày ở các trại lao động cưỡng bức hàng triệu người. Tuy rằng số liệu chính xác về sử dụng bạo lực đó không bao giờ biết được, thời kỳ đó về nhiều mặt có thể so sánh với những năm tồi tệ trong thời kỳ khủng bố và thanh trừng của Stalin. Bạo lực tuy được Mao và một số người cộng sự chủ chốt khuyến khích, nhưng cũng còn được nuôi dưỡng bởi những cuộc đấu tranh không ngừng tăng lên nhằm giành quyền kế tục chính trị, y như truyền thống trong những triều đại phong kiến Trung Quốc xưa kia.

Phải mất nhiều năm với hoạt động kiên nhẫn của những người cộng sản Trung Quốc, trong đó có Chu Ân Lai, người ta mới thấy lại sự khôi phục cho những người lãnh đạo chóp bu trước đây còn sống sót, như Đặng Tiểu Bình, và sự phá hoại khủng khiếp của cuộc Cách Mạng Văn Hóa mới được chế ngự. Và phải đến cái chết của Mao vào Tháng Chín, 1976, quá trình bình thường hóa xã hội mới quay trở lại.

Chu Ân Lai / Zhou Enlai / 周恩來.
Chu Ân Lai / Zhou Enlai / 周恩來.

Vào Đại Hội Đảng Lần Thứ 12 ( Tháng Chín, 1982 ), Đặng chính thức đưa ra một cách tiếp cận mới nhằm tìm ra mục tiêu khôi phục dân tộc và uy tín quốc tế cho Trung Quốc. Được công bố vào cuối những năm 1970 và được miêu tả như là “bốn hiện đại hóa” ( hiện đại hóa nông nghiệp, hiện đại hóa công nghiệp, hiện đại hóa khoa học kỹ thuật, hiện đại hóa quốc phòng ), chương trình đó hướng tới sự mở cửa thực dụng với toàn thể ra thế giới phương Tây và làm nảy sinh nguy cơ xáo trộn tính chính thống của hệ tư tưởng ở trong nước. Quá trình mới đó cũng bao gồm việc xây dựng vị trí quốc tế của Trung Quốc: Khôi phục toàn bộ các quan hệ với Mỹ cuối năm 1978, phục hồi quan hệ về kinh tế, chính trị thương mại giữa Trung Quốc và Nhật Bản, cũng đồng thời được coi là sự chia sẻ lo sợ chung về chủ nghĩa bành trướng của Liên Xô.

Trong các cuộc họp Đảng, Đặng luôn ra vẻ trung thành với những lời dạy của Mao. Năm 1979, ông ta nói rằng bất cứ người công dân Trung Quốc nào cũng đều phải tuân theo “bốn nguyên tắc”; đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, chuyên chính vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng, chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Mao Trạch Đông. Tuy nhiên, trên thực tế, dưới chiêu bài tiếp tục đường lối của Mao, Đặng đã chủ tâm xét lại đường lối đã định của Đảng, và trong quá trình đó, ông ta phải vượt qua một loạt các trở ngại to lớn về chính trị, về cả mặt học thuyết lẫn bộ máy cai trị quan liêu.

Đặng đã tỏ ra rất thận trọng và nhẫn nại trong việc tìm cách loại bỏ từ từ những lãnh đạo lớn tuổi thuộc thế hệ cũ, nặng lòng sùng bái Mao và hệ tư tưởng Marxist. Trong một chừng mực nào đó, ông ta đã làm nảy sinh các mầm mống của phong trào dân chủ nổi lên trong giới sinh viên và thanh niên. Tuy nhiên, cứ mỗi khi ông ta gặp sự phản kháng của các lãnh đạo thế hệ cũ và tầng lớp vẫn đang hưởng lợi từ việc duy trì trật tự cũ, ông ta lại sẵn lòng hy sinh những nhóm người khởi xướng những phong trào dân chủ này để làm hài lòng bộ máy của mình, để đảm bảo những làn sóng giận dữ của họ không trào dâng và xô đổ bức tường đổi mới mà ông ta đang xây dựng.

Ngay từ đầu năm 1978, hoạt động đó đã thể hiện qua những cuộc biểu tình của quần chúng và qua những người dán báo đại tự trên “bức tường dân chủ” nổi tiếng, không xa cấm thành ở Bắc Kinh. Một khẩu hiệu được dán bởi một người lãnh đạo sinh viên là Ngụy Kinh Sinh đã nói lên được ý muốn quan trọng của những người chống đối: “Không có dân chủ, không có hiện đại hóa”. Đặng đã ban cho Ngụy Kinh Sinh được hưởng 15 năm tù vì mong muốn có được “hiện đại hóa thứ năm” ( tức là đòi dân chủ hóa ). Đối với Đặng, cải cách không có nghĩa là ông ta hoặc Đảng Cộng Sản phải từ bỏ quyền lực.

Ngụy Kinh Sinh / Wei Jingsheng / 魏京生.
Ngụy Kinh Sinh / Wei Jingsheng / 魏京生.

Công cuộc cải cách của Đặng đòi hỏi không những phải trẻ hóa đội ngũ lãnh đạo, mà còn cả sự kế tục bản thân Đặng một cách có trật tự. Để bảo đảm cho một sự quá độ như vậy thì những người lãnh đạo cao nhất trước hết phải củng cố quyền lực của họ, gạt bỏ mọi đối thủ hiện có hoặc tiềm năng, nắm chắc tình hình cũng như chỉ định và hỗ trợ cho người kế nhiệm. Đó là trung tâm chương trình hành động của Đặng từ đầu những năm 1980. Nhờ sự khéo léo đó, ông ta dọn đường chuẩn bị cho những người kế nhiệm mình leo lên những vị trí cao nhất, trong đó có Hồ Diệu Bang.

Hồ Diệu Bang / Hu Yaobang / 胡耀邦.
Hồ Diệu Bang / Hu Yaobang / 胡耀邦.

Cũng như Gorbachev, Hồ Diệu Bang đã úp mở quan điểm cho rằng những thay đổi chính trị cơ bản là cần thiết và chúng phải được tiến hành song song với những thay đổi về kinh tế “bốn hiện đại hóa”. Bởi vì chương trình kinh tế hướng về sự mở rộng phi tập trung hóa, thì sự thay đổi về chính trị có thể dẫn tới một sự phân tán quyền lực chính trị. Tuy vậy, khi cuộc thảo luận đi đến vấn đề vai trò của Đảng, thì tác động phối hợp của lợi ích chính trị to lớn, của hệ tư tưởng giáo điều, kết hợp với thiên hướng đặc biệt của tất cả các nhà lãnh đạo cộng sản tự cho mình là những người duy nhất nhận thức được đúng đắn thực tế phức tạp xung quanh mình, lại làm xuất hiện trở lại sự khẳng định dứt khoát là vai trò lãnh đạo của Đảng cần được tiếp tục, có nghĩa là “dân chủ tập trung”, một thuật ngữ mà Lenin cố ý dùng sai để nói về sự phục tùng ngu đần [ Trang 162 ].

Điều đó, đến lượt nó, lại đặt ra câu hỏi về giới hạn của sự thay đổi, vấn đề đâu là ranh giới đích thực giữa cải cách kinh tế và cải cách chính trị, vẫn chưa được giải quyết. Gặp phải nhiều sự chống đống của những quan chức Đảng trung thành với tư tưởng cũ, Hồ Diệu Bang bị ép phải từ chức vào năm 1987.

Là một người khôn ngoan, Đặng đã tìm ra một yếu tố mới để thêm vào công thức “Đổi Mới” của mình, ông ta đã kết hợp thêm truyền thống “thương mại thực dụng” của các thương nhân Trung Quốc vào công thức của mình, do đó đã lái được sự chú ý của nhiều người qua vấn đề kinh tế. Trong đó phải kể đến công cuộc việc phi tập thể hóa và giải thể hóa công xã dần dần trong nền nông nghiệp Trung Quốc đã đẩy nhanh năng suất lao động ở khu vực nông thôn một cách bất ngờ. Quả vậy, qua vài năm, Trung Quốc đã biến từ một nước thuần túy nhập lương thực thành một nước có thể xuất khẩu lương thực – hoàn toàn trái với nước cộng sản láng giềng Liên Xô. Điều này đã khiến cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc có lý do để hài lòng và tin tưởng vào tiến trình hành động của mình.

Nhưng sự cải cách này cũng đem lại một vài hậu quả sâu xa về ý thức hệ. Khi nhiều người Trung Quốc đã thoát dần ra khỏi cái khuôn khổ chủ nghĩa cộng sản được nhào nặn bằng sự phát triển ý thức hệ và bắt đầu quan tâm đến việc bán sản phẩm tự do trên thị trường mở rộng với giá cả được quyết định bởi quy luật cung cầu, nó tạo ra nguy cơ làm suy yếu sự kiểm soát trực tiếp của Đảng đối với một dân tộc quá đông – dù rằng có thuận lợi lớn cho nền kinh tế Trung Quốc. Nguy cơ này, lại cảnh tỉnh những người cộng sản, khiến họ phải xây dựng những hệ thống tường rào khác để bảo vệ cho quyền lợi của mình.

Đến năm 1984, chính quyền của Đặng lại mở cửa cho những xí nghiệp tư nhân quy mô nhỏ, nhất là trong lĩnh vực tiêu dùng thiết yếu. Một khi đã tạo ra việc mở cửa này thì khuynh hướng văn hóa của xã hội Trung Quốc đối với sáng kiến của người phụ trách xí nghiệp nhanh chóng được thể hiện. Theo một báo cáo của CIA đệ trình lên Quốc hội Mỹ vào Tháng Tư, 1988 thì 300.000 xí nghiệp như thế, cũng như thêm 20 triệu cơ sở kinh doanh một người hay một gia đình, đã ra đời năm 1987.

Vào đầu những năm 1980, Trung Quốc đã lập nhiều cái gọi là đặc khu kinh tế trong các vùng duyên hải Trung Quốc, đặc biệt là Thẩm Quyến, Sán Đầu, Chu Hải và Hạ Môn để thu hút đầu tư nước ngoài. Sự có mặt của nước ngoài và hoạt động kinh tế trong các vùng này thực tế là tạo ra một loạt ốc đảo tư bản chủ nghĩa bên trong nền kinh tế Trung Quốc.

Năm 1987, xuất khẩu của Trung Quốc tăng vụt lên 25% và ngoại thương Trung Quốc đạt đến mức đáng kính nể là 80 tỷ, gấp 4 lần mức năm 1978.

Đồng thời, Trung Quốc đã gởi số tương đối lớn những sinh viên có khả năng – và trong nhiều trường hợp, có những liên hệ thân thích về phương diện chính trị – ra nước ngoài học tập. Kết quả là một sự tổn thất không tránh khỏi trong việc kiểm soát trực tiếp ý thức hệ đã được thừa nhận – dù rằng với đôi chút miễn cưỡng chính thức và có lúc căng thẳng – nhằm thu được lợi ích từ các nước phương Tây tiên tiến hơn về công nghệ và khoa học. Nổi bật nhất về phương diện này là việc rất nhiều sinh viên như thế đã được gửi sang Hoa Kỳ, kẻ thù tư tưởng của Trung Quốc trong thời gian trước kia. Người ta đã ước lượng rằng vào năm 1987 có khoảng 27 nghìn sinh viên Trung Quốc đang học tập tại các trường đại học Mỹ, so với số ít ỏi sinh viên từ Liên Xô. Năm 1988, trường Đại Học Harvard cho biết rằng trường Đại Học Bắc Kinh đã trở thành một trong 10 trường đứng hàng đầu thế giới về cung cấp sinh viên đối với các chương trình đào tạo của trường Harvard [ Trang 168 ].

Tuy nhiên, những cải cách như thế không phải là không đau đớn. Khoảng cách giàu nghèo ở Trung Quốc tăng nhanh do việc thâu tóm đất đai nông nghiệp. Quan trọng hơn, phần lớn những người được trao quyền để mở rộng làm ăn trong những lĩnh vực mới và trên quy mô lớn cũng đều là người của các quan chức Đảng và bà con họ hàng của họ. Điều này càng củng cố sự ưu việt và tính hợp pháp của Đảng, khiến cho bất kỳ một nỗ lực cải tổ nào cũng trở nên khó khăn, do sự đụng chạm quyền và lợi ích quá lớn lao. Cuối cùng thì, những sự phát triển của các thành phần được gọi là “tư bản đỏ” này lại trở thành một cánh tay nối dài cho quyền lực của Đảng. Nó đưa thêm vào nhiều lý do khiến xu hướng tập trung quyền lực của Đảng lại càng trở nên cần thiết đối với một bộ phận lớn đảng viên và những người bà con thân thích của họ.

Tham nhũng cũng trở thành một vấn đề nhức nhối trong xã hội. Những bài tường thuật của báo chí Trung Quốc đã kể lại những vụ quan chức ăn cắp hàng triệu tới hàng tỷ đô la của nhà nước thông qua việc buôn lậu, lừa gạt và lợi dụng công khai trắng trợn. Ăn hối lộ để nhận được những hàng hóa hay vật tư khan hiếm, kể cả ở những người sản xuất và người tiêu dùng, đã trở thành một vấn đề lan tràn khắp nơi. Lạm dụng quyền lực chính trị và thiên vị trong phân phối tài nguyên kinh tế, chẳng hạn như chất đốt, xảy ra ở mọi nơi. Tháng Giêng, 1986, các lãnh đạo Đảng đã phát động một chiến dịch nhằm “chỉnh đốn Đảng”. Nhưng chừng nào các tài nguyên còn được phân phối không theo thị trường mà bằng ý chí của bộ máy Nhà Nước và Đảng thì các loại tham nhũng này vẫn còn tiếp tục diễn ra như thế.

Thêm vào đó, việc cùng tồn tại một nền kinh tế dựa trên việc hoạch định giá cả do trung ương đề ra một cách độc đoán với một nền kinh tế do thị trường điều khiển đã tạo ra một sự hỗn loạn lớn lao đối với những người làm kế hoạch Trung Quốc. Đối với những nhà quản lý ngày càng độc lập trong các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh; đối với các nhà kinh doanh tư nhân mới đang nổi lên và đối với các thương gia nước ngoài. Sự hỗn loạn trong hệ thống giá cả là nguồn gốc của những đình trệ trong nền kinh tế, và nó cũng góp phần vào những áp lực lạm phát nguy hiểm tiềm tàng. Làm thế nào giải quyết vấn đề này vẫn là đề tài nan giản, về mặt kinh tế cũng như về mặt học thuyết, mà có khả năng dẫn đến sự chia rẽ dữ dội giữa những nhà lãnh đạo Trung Quốc.

Chủ nghĩa cộng sản thương mại có thể thoái hóa thành chủ nghĩa cộng sản tham nhũng, mà sự tham nhũng trước hết lây lan và làm suy đồi tầng lớp quan chức trong Đảng, rồi sau cùng đưa nhanh đến một cuộc đàn áp và phản ứng tập trung về chính trị. Trong khi đó, chủ nghĩa đa nguyên kinh tế ngày càng nổi lên có thể sinh ra sự bất ổn trong dân chúng ngày càng lớn, và xuất hiện ngày càng nhiều những yêu cầu đòi dân chủ hơn.

Những vấn đề chính trị cũng được đặt ra, khi tình trạng khó xử không thể tránh được của việc phi tập trung hóa kinh tế lại được thiết lập trong một cái khung chính trị tập trung. Kinh tế phát triển chắc chắn xung đột với chính trị độc quyền. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải lựa chọn giữa thỏa hiệp về phi tập trung hóa hay nhượng bộ về kiểm soát chính trị. Nhượng bộ trên mặt trận chính trị rõ ràng có nghĩa là thu hẹp hơn nữa vai trò quản lý hành chính của Đảng. Trong khi đó, sự giới hạn hơn nữa vai trò của Đảng lại càng mở rộng cửa cho sự bất đồng quan điểm chính trị công khai.

Nét nổi bật của vấn đề này càng rõ ràng do sự xuất hiện các bất đồng như thế trong giới sinh viên và trí thức. Đối với các lãnh tụ của Đảng, những yêu cầu quá đáng về tự do hóa chính trị hơn nữa – được đẩy mạnh vào cuối những năm 1980, đã khiến họ phải xuống tay để bảo vệ quyền lợi mà họ chưa chuẩn bị để nới lỏng của mình – mà sự kiện Thiên An Môn là một trong những hậu quả đau buồn nhất và thể hiện sự bất lực trước bài toán kinh tế và chính trị hóc búa mà họ chưa thể giải đáp.

Mặc cho những điều kiện lịch sử – văn hóa đặc thù đã khiến cho Trung Quốc trở thành một trường hợp độc đáo khác xa với Liên Xô, giúp họ tận dụng được hoàn cảnh quốc tế, và vượt qua những khủng hoảng ban đầu, nhưng khi câu hỏi lớn nhất không có lời giản đáp lại quay trở lại với cùng một mệnh đề như ở Liên Xô và các quốc gia cộng sản Đông Âu, thì những nguyên nhân đã dẫn đến cuộc khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô… sẽ đặt chân lên ngưỡng cửa Trung Hoa, có lẽ chỉ còn là vấn đề thời gian…

SỰ HẤP HỐI CỦA CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN

Chủ nghĩa cộng sản xuất hiện ở Liên Xô, bị bác bỏ ở Đông Âu, và ngày càng trở thành thương mại hóa ở Trung Quốc, đã trở thành một hệ tư tưởng mất uy tín trên toàn thế giới. Chủ nghĩa Marxist-Leninist – sự thống nhất lý thuyết và hành động – đã không còn được tôn trọng ngay cả trong các đảng viên như là một sự chỉ dẫn có giá trị phổ quát cho việc kiến thiết lại xã hội trong thực tiễn.

Khắp thế giới, ngày nay, người ta cho chủ nghĩa cộng sản theo kiểu Xô Viết là đồng nghĩa với sự phát triển bị kìm hãm. Quan điểm này ngự trị ở cả hai phần của Châu Âu, ở Viễn Đông, ở Đông Nam Á và ở Bắc Mỹ. Nó cũng đang bắt đầu ảnh hưởng quan điểm của những người lãnh đạo dư luận ở Châu Mỹ Latin và Châu Phi.

Trong khi ở những phần phát triển hơn của thế giới, có rất ít người tìm thấy ở chủ nghĩa cộng sản một chương trình thích hợp cho tương lai, thì trong các quốc gia đang phát triển, những nhược điểm của mô hình phát triển Xô Viết được chứng minh hùng hồn bởi số phận của nhiều nước đã chọn đi theo nó.

Tình trạng nhất trí mới của thế giới nói lên một sự thay đổi có tính chất thời đại và kéo theo những hậu quả chính trị tai hại đối với chủ nghĩa cộng sản thế giới. Chủ nghĩa cộng sản đã từng có sức hấp dẫn trước hết đối với những người bất mãn do điều kiện không được ưu đãi hay do sự áp bức dân tộc, họ nhìn thấy ở đây một lối thoát đi đến quyền lực chính trị. Tình trạng nghèo khổ, lạc hậu và sự thù địch dân tộc tạo ra cơ sở thuận tiện nhất cho sức thu hút của nó. Tuy nhiên, thế giới đã thay đổi…

Sự suy sút về tầm quan trọng tư tưởng và về nhiệt tình chính trị của chủ nghĩa cộng sản có thể được nhìn thấy qua một cuộc họp tập hợp 93 Đảng Cộng Sản ở Praha vào giữa Tháng Tư, 1988 để chuẩn bị lần kỷ niệm thứ 30 cơ quan cộng sản quốc tế cuối cùng còn sót lại do Liên Xô nâng đỡ là tờ World Marxist Review ( tức tờ “Những Vấn Đề Hòa Bình Và Chủ Nghĩa Xã Hội” ). Cuộc họp gần như đã hoàn toàn rơi ra khỏi tầm chú ý của của thế giới, và chỉ được đăng với một vài nhận xét ngắn gọn và qua loa trong báo chí cộng sản.

Trong khi thế giới xích lại gần nhau và tiến hành hàng loạt những chương trình hợp tác, thì trong nội bộ các nước cộng sản lại diễn ra những cuộc đấu tranh liên miên với nhau. Sự sụp đổ về kỷ luật, sự sa sút về kinh tế, và sự phai nhạt về đạo đức, vốn gắn liền trực tiếp với sự xói mòn sức thu hút của Liên Xô, với tư cách một mẫu mực của chủ nghĩa xã hội đã là minh chứng hùng hồn cho việc lý thuyết cộng sản bị tan vỡ, thực tiễn cộng sản hiện nay bị xem là một thất bại trên khắp thế giới. Tất cả những điều này báo trước sự kết thúc sắp đến của chủ nghĩa cộng sản với tính cách một hiện tượng thế giới quan trọng vào đầu thế kỷ XX.

Xét về mặt lý thuyết, lẽ ra chủ nghĩa cộng sản phải thắng lợi nhiều nhất ở thế giới đã phát triển. Theo học thuyết kinh điển của Marx thì cách mạng xã hội chủ nghĩa lẽ ra phải xảy ra ở các nước phát triển như là hậu quả lịch sử tất yếu của cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản ở trong xã hội công nghiệp hóa. Vào năm 1961, Đảng Cộng Sản Liên Xô tuyên bố, trong cương lĩnh mới được thông qua của nó rằng “quá trình giải thể tất yếu đã trùm lên chủ nghĩa tư bản từ trên xuống dưới” và “cuộc tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản” đang diễn ra [ Trang 200 ].

Không những sự “chẩn đoán” này là sai lầm, mà vào khoảng cuối thế kỷ XX, một mệnh đề còn mạnh mẽ hơn nảy sinh: xã hội càng tiến lên thì Đảng Cộng Sản của nó càng trở thành ít cần thiết về mặt chính trị. Điều này làm đảo lộn cả học thuyết của chủ nghĩa cộng sản, trong khi nó thất bại ở nơi nó có hy vọng thành công, thì nó lại có vẻ thành công ở nơi mà theo học thuyết, các điều kiện xem ra là quá sớm về mặt lịch sử cho sự thành công của nó.

Điều ngược đời này cuối cùng dùng đã làm cho chủ nghĩa cộng sản mất luận điểm trung tâm của nó: Nó vẫn tự cho rằng nó đang đứng ở điểm cao nhất của lịch sử, rằng nó đại diện cho tương lai, và sự thắng lợi tất yếu của nó là biểu hiện sự tiến bộ của loài người. Lối đơn giản hóa quá đáng của nó đã không thể nào bao quát được tất cả những tình trạng phức tạp của cấu trúc xã hội của xã hội tiên tiến. Quan điểm mà Marx đưa ra về địa vị trung tâm của giai cấp vô sản công nghiệp cũng không trở thành hiện thực.

Học thuyết này cũng không thể cung cấp một sự hướng dẫn có ý nghĩa nào tới các chính sách xã hội mà mặc nhiên là cần phải tiếp thu những sự cải tiến sáng tạo của các khoa học mới và kỹ thuật cao. Toàn bộ khu vực cộng sản đã trở nên tụt hậu về kinh tế, lạc hậu về xã hội so với những phần khác của thế giới. Học thuyết của nó hoàn toàn không có tính sống động và không có khả năng thích nghi khi hoàn cảnh thay đổi. Đối diện với nền dân chủ của phương Tây là nơi những sự lựa chọn được tiến hành trên cơ sở tranh luận công khai, chủ nghĩa cộng sản đã không thể đối phó lại, và nó đã tự phơi bày sự không thích nghi rõ rệt của nó đối với thời hiện đại.

Sự thất bại của chủ nghĩa cộng sản, xét đến cùng là về mặt trí tuệ. Nó đã bắt nguồn từ một nhận thức sai về lịch sử và về bản chất con người, nó không coi trọng nguyện vọng cơ bản của con người là tự do cá nhân, để tự biểu hiện về mặt nghệ thuật và trí tuệ. Và trong thời đại của trí thức và thông tin đại chúng, con người ngày càng muốn có sự tự do lựa chọn về chính trị. Nó cũng coi nhẹ mối quan hệ hữu cơ giữa một bên là hiệu quả kinh tế với sáng kiến đổi mới và một bên khác là sự khao khát của cá nhân về phúc lợi vật chất. Như vậy chủ nghĩa cộng sản đã bóp nghẹt sự sáng tạo xã hội ngay cả khi họ tự nhận mình là chế độ xã hội sáng tạo và đổi mới nhất.

Nó đã đánh giá thấp vai trò các dân tộc và chủ nghĩa dân tộc, do đó mà đã bị choáng trước những cuộc xung đột dân tộc trong các nước xã hội cộng sản. Nó cũng không thấy được sự hấp dẫn của tôn giáo nên nó đã bị bất ngờ về sự chống đối ở Ba Lan dựa trên đạo Thiên Chúa và sự hồi sinh của Hồi Giáo ở ngay chính Liên Xô. Điều cuối cùng và cũng là quan trọng nhất, trong khi cuộc cách mạng kỹ thuật điện tử đã làm thay đổi bản chất sự phân phối quyền lực và cơ cấu xã hội ở các nước tư bản phát triển, thì những người theo chủ nghĩa Marx-Lenin vẫn còn bám lấy những khái niệm lỗi thời trong những giai đoạn đầu của cuộc cách mạng công nghiệp.

Thế kỷ XX như vậy đã không trở thành thế kỷ của chế độ cộng sản như những người cộng sản đã tuyên bố. Không những vậy, vào cuối thế kỷ XX, chủ nghĩa cộng sản ở khắp mọi nơi trên thế giới, không những lạc hậu với tư cách một cương lĩnh xã hội mà còn không cần thiết về mặt chính trị.

Một thứ chủ nghĩa thiếu sức sống, thiếu khả năng thích nghi, ích kỷ, và không còn cần thiết như vậy, khi gặp những biến động lớn từ bên ngoài ập tới hoặc từ bên trong trỗi dậy, thường rất có rất ít khả năng tự giải quyết hoặc chuyển hóa những khó khăn của mình thành cơ hội… Nó có thể khuyến khích tham vọng của những người đang được hưởng lợi ích to lớn từ hệ thống để những kẻ này dùng bạo lực đàn áp số đông còn lại trong một khoảng thời gian nào đó… Nhưng điều này chắc chắn là không thể kéo dài mãi mãi… Trong một thế giới liên tục đổi thay, chủ nghĩa cộng sản và những kẻ trục lợi từ hệ thống cai trị của chúng không thể trục lợi mãi dựa trên một thứ lý thuyết đã mục ruỗng và hấp hối…, trong khi đại bộ phận dân chúng ngoài kia đã và đang sống bằng những chất liệu của cuộc đời thực sống động, sáng tạo và không ngừng đổi thay… Vấn đề còn lại sẽ chỉ là thời gian, và việc con người có thể tận dụng được bao nhiêu những điều kiện của hiện tại để rút ngắn khoảng cách có thể tạo ra những đổi thay lớn lao này…

Tuy nhiên, một kịch bản đổi thay dẫn đến việc đưa chủ nghĩa cộng sản trở thành một di sản đáng buồn của lịch sử, sẽ khó có thể xảy ra nếu người ta dùng khoảng thời gian đó chỉ để chờ đợi. Khoảng thời gian đó cần phải dùng vào việc chuẩn bị cho một bộ phận lớn dân chúng sẵn sàng về mặt tri thức, hành động và những ý tưởng kiến tạo xã hội mới trên các lĩnh vực khác nhau… để có thể trong một chừng mực nào đó, lấp vào những khoảng trống cần thiết gồm nhiều những cái hố sâu đầy nguy hiểm mà chủ nghĩa cộng sản đã để lại trong suốt một thời gian dài.

Sự gặp gỡ đầy thảm họa của nhân loại với chủ nghĩa cộng sản trong thế kỷ XX đã cho chúng ta một bài học đau đớn nhưng cực kỳ quan trọng: Đó là sự xây dựng xã hội một cách ảo tưởng về căn bản đã xung đột với tính phức tạp của điều kiện con người, và sự sáng tạo xã hội chỉ nảy nở tốt nhất khi quyền lực chính trị bị thu hẹp. Bài học cơ bản đó cho thấy chính là nền dân chủ, chứ không phải chủ nghĩa cộng sản sẽ thống trị trong thế kỷ XXI [ Trang 258 ].

Tác Giả: Từ Liên.