2022, các sử gia Cao Đài vẫn cố chấp…

Vì sự căm hận mùa quáng đối với chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa mà các sử gia Cao Đài cứng đầu cứng cổ vẫn rêu rao cái luận điệu của đám giặc trọc Ấn Quang: Ngô Đình Diệm đàn áp tôn giáo, ngoại trừ Thiên Chúa Giáo!

Đạo Cao Đài đất Tây Ninh đã và luôn có một vai trò quan trọng trong việc phát triển nguyên khí đất Phương Nam… đặc biệt vào giai đoạn hậu Đệ Nhị Thế Chiến.

Hộ Pháp đời thứ nhì, Đức Phạm Công Tắc, tham vọng cá nhân quá cao. Vì nhu cầu khẩn thiết phải bình định và thống nhất Việt Nam Cộng Hòa đang bị chia năm xẻ bảy bởi các lãnh chúa Đông, Tây Nam Bộ và Sài Gòn Gia Định, chính phủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã phải sử dụng nhiều biện pháp để các lãnh chúa này phải đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi tổ chức và cá nhân của các vị ấy…

Các biện pháp mạnh tay này đã khiến những người như Bảy Viễn của Bình Xuyên, mà thực sự là tay sai của Phòng Nhì Pháp phải lưu vong; và cụ Hộ Pháp Phạm Công Tắc một lần nữa phải lưu vong sang Cambodge — và lần nay là lưu vong sau cùng trong đời cụ, cụ đã mất ở Cambodge.

— Cụ lưu vong là chuyện cực chẳng đã, cụ đã không chấp nhận chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa: cụ hiểu được họa cộng sản, nhưng cụ đã không chịu hiểu chỉ một chính quyền quốc gia chính danh mới đủ khả năng bảo vệ Miền Nam khỏi họa xâm lăng của cộng sản Bắc Việt… Và hơn nữa cụ vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi sự ảnh hưởng khynh đảo của tàn dư thực dân Lang Sa còn thoi thóp ở Miền Nam.

Cụ khư khư muốn ôm đất Tây Ninh làm Lãnh Thổ Tự Trị của Cao Đài.

Vì sự căm hận mùa quáng đối với chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa mà các sử gia Cao Đài cứng đầu cứng cổ vẫn rêu rao cái luận điệu của đám giặc trọc Ấn Quang: Ngô Đình Diệm đàn áp tôn giáo, ngoại trừ Thiên Chúa Giáo!

Tụi giặc trọc đã góp phần tích cực vào việc làm sụp đổ nền Đệ Nhất Cộng Hòa.

Có lẽ một người với trí thông minh trung bình cũng nhận thấy chưa bao giờ Cao Đài bị đàn áp và khuynh đảo một cách dã man như thời cộng sản thống trị toàn cõi Việt Nam.

Thực dân Pháp đã có thời đàn áp Cao Đài khá mạnh tay, nhưng cũng chưa bao giờ chiếm đóng các hạ tầng cơ sở của Cao Đài; rồi khi người Nhật xâm lăng Việt Nam họ cũng chẳng đàn áp Cao Đài, còn viện trợ vũ khí, chuyên gia để giúp quân đội Cao Đài đánh cộng sản.

Chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa của Tổng Thống Ngô Đình Diệm chưa bao giờ kỳ thị, cũng như chưa bao giờ đàn áp tôn giáo: tỷ lệ những người Phật Giáo nắm các vị trí quan trọng trong chính quyền Đệ Nhất Cộng Hòa cao hơn Thiên Chúa Giáo rất nhiều.

— Nhưng một sự thật không thể chối bỏ được, vết nhơ đối với Tổng Thống Ngô Đình Diệm là việc xử tử Tướng Hòa Hảo Ba Cụt Lâm Quang Vinh, Tướng Ba Cụt đã bị lừa theo kiểu “Lễ tiền binh hậu”, dù với bất cứ ly do gì, Tổng Thống Ngô Đình Diệm là người phải chịu trách nhiệm trực tiếp với cái chết của Tướng Ba Cụt.

Các sử gia Cao Đài cần phải can đảm để viết đúng suy nghĩ của mình: các vị không phải là những người có tầm suy luận hạn hẹp như vậy.

Cộng sản đã tạo rồi một nuồi các dối trá lịch sử: quý vị đừng vì sự cố chấp của mình mà tiếp tay cho chúng.

Melbourne, 12/11/2022.

Hoạt Động Của Các Chức Sắc Cao Đài Việt Kiều Tại Cao Miên. Tác Giả: Lê Hương.

Lời người đăng:

Bài viết này trích trong Tập San Sử Địa số 16 — đặc khảo Việt Kiều tại các lân bang: Miên, Thái, Lào, Xuân Canh Tuất, Tháng Mười, Mười Một, Mười Hai, Đại Học Sư Phạm Sài Gòn & nhà sách Khai Trí xuất bản, VNCH, 1969.

  • Hình đính kèm chỉ có tính cách minh họa, không có trong bài viết.
  • Những người Pháp mà ông Giáo Sư đạo Cao Đài Trần Quang Vinh gặp trong bài viết có hai nhân vật đáng chú ý. 1. Ông Albert Sarraut là cựu Toàn Quyền Đông Dương vào thời điểm đó. 2. Ông Marius Moutet sau làm Tổng Thống, Hồ Chí Minh nữa đêm mò vào nhà ông này ký Tạm Ước Fontainebleau 14/9/1946, bán Việt Nam cho Pháp, khiến bè lũ Hồ Chí Minh phải “9 năm kháng chiến”, và sau cùng là cái hiệp định nhục nhã Geneva 1954 chia đôi đất nước ở vĩ tuyến 17.

❀❀❀

Đạo Cao Đài khai sáng ở Việt Nam trong năm 1925, Tòa Thánh đặt ở tỉnh Tây Ninh là nơi phát xuất mối đạo.

Giữa năm 1927, Tòa Thánh mở một hội thánh ở Cao Miên gọi là Hội Thánh Ngoại Giao dưới chính quyền hiện thế của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc. Hội thánh tạm thời đặt tại đường Lalande Callan. Trong hệ thống tổ chức, Hội Thánh Phnom Penh là một trấn đạo, cũng như ở Việt Nam nhiều tỉnh họp thành một vùng dưới sự điều khiển của Trấn Đạo. Những vị chức sắc đầu tiên ở Cao Miên được Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế hay là Cao Đài chọn lựa và chỉ định ngày 27/07/1927 tại Phnom Penh trong buổi xuống cơ bút.

Thành phố Phnom Penh tháo dỡ tượng đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc của Đạo Cao Đài -- ngày 26/01/2017.
Thành phố Phnom Penh tháo dỡ tượng đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc của Đạo Cao Đài — ngày 26/01/2017.

Hội Thánh Phnom Penh là một trung tâm hoạt động rất đắc lực. Trong một năm đầu ( 1927-1928 ) đã có hơn 10.000 ( mười ngàn ) tín đồ Việt Kiều.

Các chức sắc được thăng bậc lần hồi như Giáo Hữu Lê Văn Bảy thăng Giáo Sư 3 năm sau. Ông Đặng Trung Chữ thăng Phối Sư trong năm 1939. Ông Trần Quang Vinh thăng Phối Sư năm 1946.

Ông Lê Văn Bảy được cử làm Trưởng Đoàn Hội Thánh Ngoại Giao từ năm 1927 đến năm 1937. Trong năm này, ông được cử đi công cán bên Trung Hoa. Ông đến Vân Nam, ngụ ở Vân Nam phủ. Vì không biết tiếng Tàu ông phải nhờ một người thông ngôn. Ông không thu được kết quả nào khi truyền bá mối đạo. Năm 1938, ông trở về Phnom Penh và thuyên chuyển về Tòa Thánh Tây Ninh.

Sau khi ông Lê Văn Bảy về Tây Ninh, ông Cao Đức Trọng thay thế trong chức vụ Trưởng Đoàn.

Từ năm 1937 đến 1942, các chức sắc dưới đây được chỉ định giữ chức Trưởng Đoàn, theo thứ tự.

  1. Ông CAO ĐỨC TRỌNG, chức Tiếp Đạo,
  2. Bà TRẦN KIM PHỤNG lên chức Giáo Sư,
  3. Ông ĐẶNG TRUNG CHỮ lên chức Giáo Sư,
  4. Ông TRẦN QUANG VINH lên chức Giáo Sư,
  5. Ông THÁI VĂN GẤM, lên thành THÁI GẤM THANH, chức Giáo Sư,
  6. Ông TRẦN VĂN PHẤN, tên thành ( chú thích: in là “thánh” ) THÁI PHẤN THANH, chức Giáo Sư.

Hai vị sau này do Tòa Thánh thuyên chuyển lên. Giáo Sư Thái Gấm Thanh bị đày sang đảo Madagascar và mất ở đấy vào năm 1943.

Giáo Sư Thái Phấn Thanh cũng bị đày sang đảo Madagascar, được ân xá và hồi hương năm 1946. Ông ở Vũng Tàu rồi về Gò Vấp và từ trần năm 1965.

Vào đầu năm 1931, ông Trần Quang Vinh được cử đi công cán ở Paris do Chánh Phủ Bảo Hộ Pháp ở Cao Miên nhân dịp Hội Chợ Quốc Tế ở Vincennes. Ông Vinh nhân cơ hội ấy thành lập một nhóm nhân vật có cảm tình với mối đạo. Trong nhóm này có nhiều chánh khách tiếng tâm như:

  1. Ông Albert Sarraut, Tổng Trưởng,
  2. Ông Alescis Métois, Đại Tá,
  3. Ông Charles Bellan, nguyên Tỉnh Trưởng ở các thuộc địa,
  4. Ông Edouard Daladier, Tổng Trưởng và nguyên Thủ Tướng,
  5. Ông Henri Guernut, Nghị Sỹ, Tổng Thư Ký Hội Nhân Quyền, nguyên Tổng Trưởng.
  6. Ông Emile Kahn, Tổng Thư Ký Hội Bảo Vệ Nhân Quyền,
  7. Ông Ernest Outrey, Nghị Sỹ ở Nam Kỳ,
  8. Ông Eugène Tojja, Luật Sư Tòa Thượng Thẩm Paris,
    9., 10. Bà và ông Félicien Challaye ( hay Challave? ) Giáo Sư trường Sorbonne,
  9. Ông Gabriel Abadie de Lestrac, Trưởng Tòa,
    12., 13. Bà và ông Gabriel Gobron, Giáo Sư,
  10. Ông Marius Moutet, Nghị Sỹ và Tổng Trưởng,
  11. Cô Marthe Williams Hội Viên Hội Bảo Vệ Nhân Quyền Trung Ương.

Để tỏ lòng biết ơn các nhân vật trên đây, Hội Thánh có khắc tên bằng chữ vàng trên mảnh đá cẩm thạch dựng trước Thánh Thất ở Phnom Penh năm 1937.

Nhờ nhóm cảm tình viên này tín đồ Cao Đài được một đặc ân đại xá trong buổi thăm tại Nghị Viện Pháp vào Tháng Hai năm 1932 và sau đó sự tự do tín ngưỡng được tuyên bố ở Đông Dương, ít ra cũng được vài năm.

Ảnh hưởng của đạo Cao Đài đối với người Miên mạnh hơn người Việt Miền Nam. Vào cuối năm 1926, một số người Miên từ bỏ ngành tôn giáo cổ truyền của họ, kéo nhau về Tòa Thánh Tây Ninh thọ giáo. Quý vị chức sắc tiếp đón nồng hậu và hết lòng truyền đạo, những mong họ sẽ biến thành kẻ môi giới của đồng bạo họ trên lãnh thổ láng giềng.

Trước Tòa Thánh có tượng Thái Tử Sĩ-Đạt-Ta cỡi ngựa trốn khỏi Hoàng Thành tầm đạo. Người Miên cho rằng có theo đạo Cao Đài vẫn thờ Phật như thường mà còn được nhiều điều cải cách mới, lạ hơn. Có người lại thấy bức tượng giống hình một ông Hoàng Cao Miên và ông ấy là Phật đầu thai, sau này sẽ trở về Cao Miên thay đổi chánh sách cai trị thành một quốc gia phú cường, thạnh trị. Quý vị chức sắc Cao Đài không bao giờ nghĩ ra điều ấy, chỉ lo truyền bá mối đạo mới cho các tín đồ. Nhưng không ngờ lời đồn đãi lan tràn khắp giới người Miên rồi sang Cao Miên, đến nỗi Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Miên ban hành biện pháp bắt bớ các tín đồ Miên.

Trên núi Bà Đen gần Tòa Thánh có vài ngọn suối nước trong, tương truyền là nước Thánh. Quý vị chức sắc hứng đem về Tòa Thánh phân phát cho các tín đồ đem về nhà để trên bàn thờ Thầy. Mỗi ngày, tín đồ đọc một thời kinh trong một quyển kinh do Tòa Thánh phân phát và uống nước Thánh để tiêu trừ bá bịnh. Dạo ấy, thiên hạ đồn Tòa Thánh bán nước suối với giá 30 xu một ve.( Theo báo Pháp ngữ ÉCHO D’OUTRE-MER ngày 25/11/1930 ).

Người Miên tiếp tục đến Tây Ninh thọ giáo, nhận nước Thánh càng ngày càng nhiều. Đầu năm 1927, số người gia tăng, mỗi ngày có hàng trăm, thường thường do những ông có chức vị trong làng hoặc những vị Sư Sãi hướng dẫn. Họ che lều ở xung quanh Thánh Đường, dự lễ, làm công quả rồi sung sướng trở về. Nhiều nhóm khác tiếp tục đến. Trong ngày lễ họ tham dự hàng ngàn. Một bản báo cáo của Ty Công An ngày 02/06/1927 ghi rằng: “5.000 ( năm ngàn ) người Cao Miên quỳ giữa sân chính, trước tượng Đức Sĩ-Đạt-Ta cỡi ngựa, nhưng một vị Sãi ước lượng là 30.000 ( ba chục ngàn ). Họ chỉ trở về khi tiền lưng khô cạn.”

Trước số người quá đông như thế, chánh quyền địa phương lo sợ sẽ có những chuyện lôi thôi. Giới Sư Sãi Cao Miên không bằng lòng khi thấy nhiều nhà Sư theo đạo Cao Đài, liền áp dụng phương pháp ngăn chận lại. Ngày 23/05/1927, ông Tổng Trưởng Bộ Lễ ban hành một thông tư nói về đạo Cao Đài như sau:

“Nghiên cứu thật kỹ, ta thấy rằng mục đích thành lập mối Đạo này đáng chê trách vì họ chỉ dùng những phương tiện lường gạt và khai thác tánh tình ngu xuẩn của các tín đồ để làm lợi cho họ.

Trái lại, đạo Phật mà dân tộc Cao Miên đã chịu ảnh hưởng rất sâu đậm, dắt dẫn chúng ta đến chốn Thiện, Mỹ không có một giới luật nào khác có thể bành trướng trong các giới đồng bào ta.”

Thông tư còn khuyên dân chúng tu hành theo Phật Giáo cổ truyền và đề phòng những điều nguy hại của một tôn giáo mới đang âm mưu lật đổ những phong tục đã có từ xưa trong lãnh thổi. Rồi, qua tháng sau, nhiều chỉ thị rõ rệt gởi đến giới Sư Sãi, và nhắc đi nhắc lại luôn luôn rằng bổn phận toàn thể Sư Sãi phải bài trừ thuyết Cao Đài giáo là thuyết trái ngược với luật lệ Nhà Nước và giới luật của Đức Thích Ca.

Nhưng dù có lịnh cấm đoán thế nào đi nữa, người Miên vẫn tiếp tục đến Tây Ninh càng ngày càng nhiều thêm. Tức thì, nhiều biện pháp cứng rắn được thi hành hầu cắt đứt sự kiện mà chánh quyền gọi là làm xáo trộn trật tự công cộng. Xứ Cao Miên thời ấy là một quốc gia bị bảo hộ, còn Miền Nam Việt Nam là thuộc địa của Pháp cùng chung một số phận như nhau. Lịnh của Toàn Quyền Pháp đưa ra, Nhà Vua Cao Miên ký ngay một sắc lịnh ngày 26/12/1927 và sau đó một sắc lịnh ngày 08/02/1928 ấn định hình phạt nặng cho người Cao Miên nào tham dự vào việc cổ động, tuyên truyền hay dự lễ của một Tôn Giáo không được Vương Quốc nhìn nhận. Người ta biết rằng:

Theo điều 15 của Hiệp Ước Bảo Hộ ngày 11/08/1863.

Theo các sắc lịnh của Nhà Vua Cao Miên ngày 21/11/1903, ngày 06/08/1919, 31/12/1925, 01/04/1930.

Theo các điều 149, 213 và 214 Bộ Hình Luật Cao Miên, chỉ có Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo được phép truyền bá ở đất Miên. Đạo Tin Lành chỉ được phép hoạt động với điều kiện quý vị Mục Sư có quốc tịch Pháp.

Suốt khoảng thời gian — lối một năm, Tòa Thánh Tây Ninh không tiếp được một người Cao Miên nào, nhưng việc phổ biến mối đạo vẫn ngấm ngầm mở rộng ở đất Miên. Giữa năm 1927, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc lên Nam Vang tổ chức nhiều buổi cầu cơ. Theo các phương pháp Tiểu Ngọc Cơ và Đại Ngọc Cơ một đấng thiêng liêng luôn luôn giáng bút: “nhà đại văn hào VICTOR HUGO”. Do đó, Hội Thánh Ngoại Giao ở Cao Miên được đặt dưới quyền chỉ huy linh thiêng của vị Thánh người Pháp. Vì sự bó buộc của Chánh Quyền, việc phổ biến mối đạo chỉ tiến hành trong các giới Việt Kiều. Vả lại, lúc ấy Việt Kiều còn được gọi theo quốc tịch, đại đa số là dân Miền Nam ở đất thuộc địa, gọi là “dân thuộc Pháp ở Nam Kỳ” ( suject français de la Cochinchine ), hoặc có người nhập quốc tịch Pháp ( citoyens français ) nên về mặt pháp lý thì thuộc luật lệ của Chánh Phủ Pháp. Sắc lịnh của Vua Cao Miên chỉ có hiệu lực đối với dân Miên.

Mặc dầu có sự ngăn chận chánh thức ấy, đến năm 1928, đạo Cao Đài đã truyền bá sâu rộng ở Cao Miên, ban đầu trong các tỉnh giáp ranh với Tây Ninh như Prey Veng, Svay Riêng là nơi có nhiều Việt Kiều nhất. [ 1 ] Để tránh sự động chạm với chánh quyền, quý vị chức sắc Cao Đài không tiếp xúc với người Miên, chỉ liên lạc với Hoa Kiều. Toàn thể tín đồ cũ và mới đồng ký vào một bản tuyên thệ có thể làm yên lòng các nhà cầm quyền:

“Chúng tôi: chức sắc và tín đồ Cao Đài ở Cao Miên đồng thỏa thuận cam kết với Chánh Phủ Bảo Hộ Pháp và Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Miên sẽ hoàn toàn thừa hành Giáo Pháp đúng theo Tín Điều của Đạo, sẽ thực hiện sự thống nhất tất cả tôn giáo hầu toàn thể Nhân Loại sống trong cảnh Hòa Bình. Chúng tôi xin hứa với Chánh Phủ không bao giờ gây rối tánh cách chánh trị. Nếu chúng tôi làm sai lời cam kết, xin chịu tội tử hình.”

Những buổi lễ thường được tổ chức tại nhà tín đồ và nhân những dịp cưới, hỏi, cúng kiến, giỗ chạp thì tăng thêm phần long trọng vì quan khách đến dự đông đảo hơn. Dần dà Việt Kiều ở tỉnh Takeo và thủ đô Nam Vang theo đạo rất đông. Nhà cầm quyền dù có cho người theo dõi hành vi [*] của quý vị chức sắc và tín đồ nhưng không có bằng cớ gì buộc tội để cấm đoán được.

( [*] Chú thích của người đăng: chữ “hành vi” không đúng phải là “hành động”. )

Đầu năm 1929, người Cao Miên lại đến Tòa Thánh ở Tây Ninh, ít hơn số người vào cuối năm 1926 và trong năm 1927. Nhiều lời đồn đãi có tánh cách chánh trị nổi lên. Các nhân viên Mật Thám báo cáo rằng trong những bài thuyết pháp có lời hứa hẹn một cuộc sống tự do, huy hoàng cho người dân bị lệ thuộc. Người ta lại nhắc đến ông Hoàng giống tượng Đức Sĩ-Đạt-Ta sẽ xuất thế cứu dân Miên thoát khỏi cảnh gông cùm!

Chánh quyền địa phương huy động lực lượng cảnh sát ngăn cản những người sùng đạo đến Tòa Thánh. Tuy nhiên nhiều giảng đường khắp các xã, các quận vẫn hoạt động đều đặn. Tại thủ đô Nam Vang, Giáo Sư LÊ VĂN BẢY có định xây cất một Hội Thánh thật lộng lẫy.

Bấy giờ, Nhà Vua Cao Miên có ý lo ngại vì lời đồn về ông Hoàng sẽ xuất thế. Ngày 10/04/1929, Nhà Vua gởi một Văn Thư cho ông Khâm Sứ ( người Pháp ) yêu cầu áp dụng những biện pháp cần thiết để giữ gìn an ninh trong Vương Quốc, trước những hoạt động của ngành tôn giáo mới của người Việt.

Ông Khâm Sứ hội ý với vị Thống Đốc Nam Kỳ ở Saigon về điểm khó khăn trên mặt pháp lý. Người Việt ở Cao Miên vẫn là dân thuộc Pháp ở Nam Kỳ, tất nhiên được hưởng mọi quy chế như người Việt ở Miền Nam, làm sao ép buộc phải thay đổi được? Ông Khâm Sứ trình bày điều thắc mắc này với Nhà Vua và sau cùng hai vị lãnh đạo đồng ý cho đạo Cao Đài tiếp tục truyền bá ở Cao Miên với điều kiện phải ngưng hết mọi hoạt động tuyên truyền và số giảng đường không được gia tăng.

Ngày 05/06/1928, tờ báo Pháp ngữ “Les Annales Coloniales” đăng một bài của ông Nghị Edouard Néron của hạt Haute Loire nói về những biến chuyển trên đây như sau:

“…gần đây, các chức sắc của ngành tôn giáo mới loan tin rằng sẽ có một ông Vua mới cho người Cao Miên, xuất hiện ở Tây Ninh. Tin theo lời, người Miên kéo đến rất đông, gần 10.000 ( mười ngàn ) tên, võ trang đao, kiếm. Ông De la Brosse, Thống Đốc Nam Kỳ đến tận nơi với vị Đại Diện Nhà Vua Cao Miên Monivong cùng các viên chức chỉ huy ngành An Ninh Nam Kỳ và Cao Miên. Ông Thống Đốc mời vị chức sắc cao cấp nhất là ông Lê Văn Trung, buộc ông phải đính chánh tin đồn một nhà Vua mới sẽ xuất hiện và buộc ông phải chịu trách nhiệm về những vụ lộn xộn có thể xảy ra. Lịnh truyền được thi hành và không có việc gì đáng tiếc làm rối trật tự.”

Nhân cơ hội này, Đức Giáo Tông Lê Văn Trung và vị Đại Diện ở Cao Miên, Giáo Sư Lê Văn Bảy thông báo cho tất cả tín đồ Việt Kiều phải triệt để tuân hành lịnh của Nhà Nước và theo lời Hội Thánh đã cam kết với Chánh Phủ. Suốt năm 1929, không có việc gì rắc rối xảy ra. Quý vị chức sắc vẫn tiếp tục thi hành sứ mạng mở mang mối đạo trong khắp các giới Việt Kiều. Những buổi lễ gia đình là những dịp tốt cho công tác. Tín đồ xin phép nhà chức trách tổ chức rầm rộ mà Chánh Quyền không thể từ chối, chiếu theo lịnh của ông Khâm Sứ và Nhà Vua Cao Miên. Quý vị chức sắc cử hành một thánh lễ trước một số đông tín đồ. Các chức sắc này đều ở Tòa Thánh được thỉnh đến truyền bá mối đạo. Lồng trong các nghi thức, tín đồ đốt pháo, đồng ca để quy tựu kẻ tò mò, biến thành một cuộc lễ công cộng hẳn hoi! Nếu nhà cầm quyền có phản đối, thì tín đồ có đủ yếu tố để chống lại. Giáo Sư Lê Văn Bảy bắt tay vào việc xây cất Hội Thánh ở Phnong Penh. Ông tổ chức đêm hát làm nghĩa và đi quyên tiền để gây ngân quỹ. Ông khởi công trên một mảnh đất rộng của Sở Thú Y, cạnh đường Pierre Pasquier. Đồng thời, những giảng đường nhỏ cũng được thiết lập ở các xóm Việt Kiều, phần nhiều xa công sở và thường lén dựng ban đêm.

Chánh Phủ Bảo Hộ không thể làm ngơ trước sự bành trướng của mối đạo, nên vào ngày 04/07/1930. Ông Khâm Sứ ở Phnom Penh thông sức cho các Tỉnh Trưởng trên lãnh thổ Miên đại khái như sau:

“Vì gần đây có những chuyện lộn xộn xảy ra, và để ngăn chận tất cả những cuộc hội họp bất kể dưới hình thức nào có thể làm rối loạn trật tự, tôi nhất định xóa bỏ từ ngày nay đến khi có lịnh mới, những đặc ân mà Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Miên và tôi đã dành cho đạo Cao Đài. Không những thế, từ đây, tôi cấm Đạo này tổ chức các cuộc lễ nào cũng mặc, nhỏ hay lớn cũng vậy. Nếu ở địa phương, có kẻ nào bất tuân vẫn cử hành lễ bái thì bổn phận của quý ông Tỉnh Trưởng phải ngăn cấm không cho cuộc lễ thành hình, nhưng đừng bắt bớ họ ngoại trừ trường hợp cuộc lễ tổ chức công khai ngoài đường phố thì quý ông không thể tha thứ họ. Mỗi lần có chuyện xảy ra, tôi yêu cầu quý ông ghi rõ căn cước của kẻ nào tổ chức và kẻ chỉ huy rồi điện cho tôi hay. Tôi sẽ áp dụng biện pháp theo luật định để trục xuất họ khỏi lãnh thổ Cao Miên. Tôi yêu cầu quý ông thông báo chỉ thị này cho dân chúng biết.”

Lịnh này được triệt để thi hành mấy tháng liên tiếp gây ra một loạt biến cố quan trọng, nhiều vụ bắt bớ đưa ra Tòa Án, nhiều chiến dịch báo chí sôi nổi và sau cùng nhiều vụ can thiệp nồng nhiệt của các đoàn thể và nhân vật chánh trị cạnh Chánh Phủ Pháp. Người ta công khai bàn tán “vụ ngược đãi Tôn Giáo”, “làm khổ nhục kẻ theo một đức tin mới”.

Trong lúc ấy, ở Tòa Thánh Tây Ninh có việc tranh chấp giữa vài vị chức sắc mà dư âm dội đến Hội Thánh Phnom Penh. Ông Chưởng Pháp LÊ BÁ TRANG kiện Giáo Sư Lê Văn Bảy về tội tiêu lạm công quỹ. Giáo Sư bị bắt trong Tháng Tám, 1933. Tòa Thánh cử ông Trần Quang Vinh thay chức “Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại Giao”. Ông Vinh đã khéo léo giữ vững tinh thần tín đồ Việt Kiều.

Cuối năm 1934, vị Toàn Quyền Đông Dương René Robin chấp thuận cho đạo Cao Đài được tự do hành đạo trong toàn quốc. Sóng gió đã qua, Việt Kiều thở một hơi dài! Ngày 21, 22 và 23/05/1937, Hội Thánh tại đường Pierre Pasquier, nay đổi thành Monivong được khánh thành rất trọng thể. Chính ông Trần Quang Vinh đọc bài diễn văn khai mạc, được báo chí Pháp, Việt và các văn sỹ nhắc nhở nhiều lần.

Tính đến năm ấy ( 1937 ), tổng số tín đồ Việt Kiều có lối 30.000 ( ba mươi ngàn ) người. Mười lăm năm sau, năm 1951, Tòa Thánh Tây Ninh lập bảng thống kê chánh thức có hơn 70.000 ( bảy mươi ngàn ) tín đồ ở Cao Miên. Đúng ra là 73.167 ( bảy mươi ba ngàn một trăm sáu mươi bảy ) tín đồ chia ra: 64.954 ( sáu mươi bốn ngàn chín trăm năm mươi bốn ) Việt Kiều và 8.213 ( tám ngàn hai trăm mười ba ) người Miên.

Năm 1952, Chánh Phủ Cao Miên lấy sở đất nơi cất Hội Thánh lại. Quý vị chức sắc phải dỡ Hội Thánh dời về đường Norodom, gần cầu Monivong, Việt Kiều quen gọi là cầu Saigon. Hội Thánh được xây cất tạm thời, không lộng lẫy đồ sộ như trước.

Năm 1956, Chánh Phủ Cao Miên không cho Tòa Thánh Tây Ninh bổ nhiệm quý vị chức sắc ở Việt Nam lên Phnom Penh, nên chức Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại Giao do ông Trần Quang Vinh giữ được Giáo Sư Thượng Hoàng Thanh thay thế. Từ ngày được Pháp trao trả quyền hành, Chánh Phủ Cao Miên không muốn cho đạo Cao Đài bành trướng hơn nữa. Lịnh cấm người Miên vô đạo vẫn còn áp dụng, nhưng không vì thế mà những tín đồ Miên từ bỏ đạo Cao Đài để trở về với Phật Giáo. Trong số tín đồ Miên có 6 vị Lễ Sanh và 1 vị Giáo Sư ở Tòa Thánh.

Trong năm 1956, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc lưu vong sang Cao Miên, đánh dấu một giai đoạn tranh đấu về chánh trị. Cuối năm ấy, Hội Thánh khởi công cất đền Phật Mẫu ở ngoại ô Phnong Penh, thuộc xóm Stung Meang Chey để ghi ngày Đức Hộ Pháp lìa quê hương. Đền Phật Mẫu là nơi thờ Đức Mẹ, do một số đông thợ hồ, thợ mộc ở Tây Ninh lén vượt biên giới sang Cao Miên làm công quả. Lối kiến trúc ngôi đền thật nguy nga, lộng lẫy, nhưng chỉ được 2 phần 3 vào cuối năm 1957. Số thợ nhập cảnh bất hợp pháp bị Chánh Phủ Cao Miên bắt trục xuất về Saigon. Trong giới tín đồ Việt Kiều có người cho rằng đó là một âm mưu của Chánh Phủ Ngô Đình Diệm. Những người thợ ấy bị giam ở Saigon một năm mới được tự do. Đồng thời ở Phnong Penh có lịnh chính quyền bắt Hội Thánh phải đập phá ngôi đền. Quý vị chức sắc kêu nài tại Tòa Án không xong, lên Tòa Thượng Thẩm cũng không xong, phải vào Hoàng Thành xin với Bà Vua mới yên. Ngôi đền không được cất thêm và cũng không cho cất lại!

Lê Hương.


[ 1 ] Năm 1928, tổng số Việt Kiều ở Cao Miên là 200.000 ( hai trăm ngàn ) người, riêng 2 tỉnh này có đến 80.000 ( tám mươi ngàn ).

Các “Thánh” của Cao Đài…

Kiến trúc các “Tòa Thánh” Cao Đài, bước vào cửa chính, là một cái “sảnh”: một bức tường ở giữa, có hai cửa hai bên đi vào “chính điện”.

Trên bức tường này có hình ba “vị thánh” như hình đính kèm.

Các "Thánh" của Cao Đài!
Các “Thánh” của Cao Đài!

1. Cái ông viết chữ Việt Nho là Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

2. Cái ông viết tiếng Pháp là đại Văn Hào Victor Hugo. Ông cụ là tác giả của những tác phẩm nổi tiếng đã được dịch sang chữ Quốc Ngữ như:

a. Những Kẻ Khốn Cùng.

b. Vô Gia Đình.

v.v…

3. Cái ông đứng dâng mực là Tôn Dật Tiên. Một trong những đầu lĩnh của Cuộc Bạo Loạn Tân Hợi 1911 Phản Tây Dương Phục Đại Thanh ở bên tàu.

Dật Tiên chủ trương thành lập nước Cộng Hòa Đại Hán. Trong khi các đầu lĩnh khác như Tư Lệnh ( rất tài giỏi ) Viên Thế Khải muốn tiếp tục chế độ quân chủ, nên đã lên ngôi Hoàng Đế. Tàu lâm vào cảnh loạn lạc quân phiệt.

Dật Tiên nổi tiếng với nhận xét dân An Nam Mít như sau:

— Cái giống dân đó là nô lệ căn tính! Suốt đời sẽ không khá nổi, suốt đời sẽ là tôi mọi cho Pháp Lang Sa.

Tổ tiên của Dật Tiên vốn cũng là một Việt nam-man ( một giống Việt man rợ ở phương Nam ) được giống Hán “khai hóa”!

Cao Đài tin rằng: cả Victor Hugo và Tôn Dật Tiên là “hóa thân” kiếp sau của Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm!!

a. Tôi không phản đối thờ Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm vì lý do sau đây:

— Cổ kim lịch sử của Việt Nam, chưa có ai điều binh khiển tướng, nhìn xa trông rộng bằng Cụ. Một ông Nguyễn Hoàng đầy tham vọng, tuy thân cô thế cô, giữ lại ở đất Bắc trước sau cũng tạo ra loạn lạc. Di Nguyễn Hoàng vào phương Nam đạt hai lợi: 1. giữ cho đất Bắc yên ổn. 2. Sử dụng cái tham vọng của Nguyễn Hoàng để lấn đất tìm đường xuôi Nam tiếp tục ( và Cụ đã thành công trong lượng định của mình. Dân Đại Việt chiếm được nhiều đất, gây đau thương cho nhiều dân tộc khác. ) Dù vậy, là một người Việt Nam tôi sẽ thờ Cụ.

b. Cụ Victor Hugo, một con người nhân bản, cái nhân bản toát lên trong các tác phẩm của cụ. Thờ cụ thì hơi có gì đó kỳ kỳ!

c. Dật Tiên thì không đáng chút nào! Quên tổ quên tông, quân thân phận bị đồng hóa! Hóa thân của Trạng Trình thì không thể nào ăn nói mất dạy như vậy được.

— Không hiểu mấy ông thần Cao Đài nghĩ cái gì! Dù sao để cho Dật Tiên cái job dâng mực, tôi cũng cảm thấy an ủi được phần nào!

*
* *

Trong bức tranh, cụ V. Hugo viết:

Dieu et Humanité: Vũ Trụ và Nhân Bản

Amour et Justice: Thương Yêu và Công Lý

Hai đời “giáo chủ” đầu tiên của Cao Đài đều là dân có liên hệ với Mẫu Quốc Lang Sa. Đặc biệt ông “giáo chủ” thứ hai Hộ Pháp Phạm Công Tắc ( một loại thò lò chính trị ), Phạm Công Tắc đã sử dụng những kiến thức phổ thông của ông ta để lừa bịp những người dân quê chất phác:

— Truyền hình đã có rồi, trong một buổi lên đồng, ông ta tuyên bố mai mốt chúng ta sẽ mang gánh hát về nhà!

Dù sao, Cao Đài cũng là một chứng tích lịch sử: lịch sử đặc thù của phương Nam non trẻ, hợp chủng.

25/12/2018