Về quân số 200,000 ( hai trăm ngàn ) của Tôn Sĩ Nghị trong cuộc xâm lăng Đại Việt 1788.

Vấn đề quân số của Tôn Sĩ Nghị, toàn quyền Lưỡng Quảng trong cuộc xâm lăng Đại Việt 1788 tôi đã bàn trong Về quân số của Tôn Sĩ Nghị ( Sun Shiyi ) toàn quyền Quảng Đông Quảng Tây trong cuộc xâm lăng Đại Việt 1788.

Tuy nhiên trong bài viết đó tôi chỉ đưa ra những suy nghĩ hòng tìm hiểu thêm, chứ không có được kết luận gì. Và nghi ngờ của ông Gia Kiểng vẫn hoàn toàn hợp lý.

Rải rác trong Jack Weatherford. Genghis Khan and the making of the Modern World. Crown Publishing Group, New York, 2004, có những thông tin về dân số của Tàu trong các thế kỷ trước đó, và quân số trong các đội quân của Tàu và lân quốc, qua đó tôi nghĩ rằng con số hai trăm ngàn ( 200,000 ) quân của Tôn Sĩ Nghị không phải là con số quá to lớn.

Để tiện theo dõi, tôi chỉ trích dẫn những con số liên quan. Những trích đoạn nguyên bản tiếng Anh liên quan được đính kèm ở cuối bài viết này.

Trang 84, 85 chép rằng, vào thế kỷ XIII, vùng lãnh thổ phía Nam của Mông Cổ, bây giờ đã bị Tàu chiếm có khoảng 50 ( năm mươi ) triệu dân. Trong khi đó nhà Tống, kinh đô ở Hàng Châu, cai trị khoảng 60 ( sáu mươi ) triệu dân ở miền Nam nước Tàu. Đế Quốc Tây Hạ ( Tangut ) ở phía Tây của Nam Mông Cổ, Jack Weatherford không cho biết dân số là bao nhiêu, nhưng vào khoảng năm 1209, khi Thành Cát Tư Hãn xâm lăng đế quốc này, quân đội của họ có khoảng 150,000 ( một trăm năm chục ngàn ) quân: gấp đôi số quân của Mông Cổ. Lãnh thổ của Đế Quốc Tây Hạ bây giờ là tỉnh Cam Túc của Tàu +phỉ.

Sau khi đã thâu tóm được những quốc gia và những chủng người xung quanh Mông Cổ như Tây Hạ, Duy Ngô Nhĩ, Khiết Đan và một phần của nước Tàu-Tống. Thành Cát Tư Hãn bắt đầu xâm lăng Ba Tư vào năm 1219.

Trang 110, 111 chép, khi xâm lăng các thành phố của đế quốc Khwarizm, Ba Tư, Thành Cát Tư Hãn có khoảng 100,000 ( một trăm ngàn ) đến 125,000 ( một trăm hai mươi lăm ngàn ) khinh kỵ quân, cùng với đám chư hầu Duy Ngô Nhĩ, Thổ Nhĩ Kỳ, các bác sỹ Tàu, cùng ( các kỹ sư ) công binh; đội quân xâm lăng của Mông Cổ lên đến khoảng 150,000 ( một trăm năm chục ngàn ) đến 200,000 ( hai trăm ngàn ) quân. Trong khi đó, quốc vương Khwarizm có khoảng 400,000 ( bốn trăm ngàn ) quân.

Đại dịch “Black Death” hay “Chết Đen” — vì khi chết da bị bầm đen — của thế kỷ XIII, XIV đã giết một số lượng dân số khổng lồ ở nước Tàu.

Trang 243 viết, vào năm 1331, các nhà chép sử biên niên cho biết khoảng 90 ( chín mươi ) phần trăm dân số của tỉnh Hà Bắc đã tử vong. Đến 1351, toàn nước Tàu được cho là có khoảng phân nữa đến hai phần ba dân số đã tử vong vì đại dịch “Chết Đen“. Vào khoảng đầu thế kỷ thứ XIII, toàn quốc Tàu có khoảng 123 ( một trăm hai mươi ba ) triệu người, nhưng đến cuối thế kỷ thứ XIV dân số chỉ còn lại khoảng 65 ( sáu mươi lăm ) triệu.

Nước Tàu đã được mở rộng gấp năm lần sau khi bị Mông Cổ chiếm đóng và thành lập nhà Nguyên. Xin xem Di sản của Hốt Tất Liệt cho quốc gia Tàu: một nước Tàu rộng lớn gấp năm lần!

Từ thế kỷ XIV đến XVIII là 400 ( bốn trăm ) năm, với 65 ( sáu mươi lăm ) triệu dân, không biết trong bốn trăm năm, đến đời nhà Thanh, dân số là bao nhiêu, nhưng chắc chắn phải gấp đôi, gấp ba sáu mươi lăm triệu.

Với cái số lượng dân số đó, thì chắc để huy động một đội quân hai trăm ngàn ( 200,000 ) xâm lăng Đại Việt dưới thời nhà Thanh chắc chắn không phải là điều không tưởng!

Con số hai trăm ngàn quân của Tôn Sĩ Nghị chắc là con số thật.

Sẽ bổ túc nữa, nếu tìm được những dữ liệu mới.

28/05/2020.

❀❀❀

Nguyên văn tiếng Anh các trích đoạn trong Jack Weatherford. Genghis Khan and the making of the Modern World. Crown Publishing Group, New York, 2004

Trang 84-85:

In the thirteenth century, the area South of Mongolia now occupied by China consisted of many independent states and kingdoms containing perhaps a third of the world population. With some 50 million people, the Jurched kingdom was only the second largest of the many kingdoms occupying the territory now included in modern China. The largest and most important territory was under the administration of the Sung dynasty, heir to centuries of Chinese civilization, based in Hangzhou and ruling some 60 million people in southern China. A string of nomadic buffer states separated the Mongolian plateau from the Sung, each buffer state consisting of a hybrid of argicultural and grazing regions ruled over by a former nomandic tribe that had conquered and settled among its subjects in order to more efficiently exploit them. Frequently, a new tribe emerged from the steppes to displace the older tribe that has grown weak and dissipated from several generations of soft city life. In a long-established cycle, a nomandic army swept down from the steppe, conquered the peasants and cities to the south, created a new dynasty, and, after a few years, fell to the attack of another marauding tribe. Although the identities of the ruling tribe changed from century to century, the system had already been in place for thousand of years.

To the west of the Jurched were the kingdoms of the Tangut, then the Uighur, and finally, in the Tian Shan mounts, the Black Khitan. The Uighur had already made their committment to Genghis Khan, and, in what seemed to be a practice war, he had recently subdued the Tangut. The conquest of the Tangut took place through a series of raids between 1207 and 1209. The campaign was like a thorough dress rehearsal of the coming battle against the much stronger Jurched, complete with crossing the Gobi. The Tangut, a Tibetan people who had created an empire of farmers and herders along the upper reaches of the Yellow River in what is the modern Gansu Province in China, occupied a weak link along the line of oases in the interior desert that controlled the flow of trade goods from the Muslim West to the Chinese East. The routes stretched like thin, delicate ribbons across the deserts of the interior and provided the only links, albeit fragile ones, between the great civilizations of the East and the West. The Tangut raids had spurred Genghis Khan to learn a new type of warfare against walled cites, moats, and fortresses. Not only were the Tangut well fortified, but they had some 150,000 soldiers, nearly twice the size of the army of Genghis Khan brought with him.

Trang 110-111:

When Genghis Khan dropped down on the cities of Khwarizm, he commanded an army of about 100,000 to 125,000 horsemen, supplemented by Uighur and other Turkic allies, a corps of Chinese doctors, and engineers for a total of 150,000 to 200,000 men. By comparison, the Khwarizm ruler had some 400,000 men under arms across his empire, and they were fighting with the home advantage of their own territory.

Trang 243:

In 1331, chroniclers recorded that 90 percent of the people of Hopei Province died. By 1351, China had reportedly lost between one-half and two-third of its population to the plague. The country had included some 123 millions inhabitants at the beginning of the thirteenth century, but by the end of the fourteenth century the population dropped to as low as 65 million.

Về quân số của Tôn Sĩ Nghị ( Sun Shiyi ) toàn quyền Quảng Đông Quảng Tây trong cuộc xâm lăng Đại Việt 1788

Cái con số 20 ( hai mươi ) hay 29 ( hai mươi chín ) vạn quân của Tôn Sĩ Nghị khiến nhiều người sợ… Lần đầu tiên tôi chú ý đến sự phản đối hai con số này là của ông Nguyễn Gia Kiểng trong…. “Tổ Quốc Ăn Năn”!!

Dù thích hay không thích giả thuyết của ông ta, tôi cũng phải công nhận giả thuyết của ông dựa trên lý luận hợp lý: tỷ lệ dân số.

— Đó là về phương diện logic, nhưng thật sự ông cũng không đưa ra được con số chính xác về con số của Tàu-Thanh lúc đó. Nên dù có sức thuyết phục trên phương diện lý thuyết, giả thuyết của ông của chỉ là giả thuyết mang tính chất mô phạm: vẫn không chứng minh được triệt để ( ý tôi muốn nói “an unsubstantiated hypothesis”. )

Một điểm nữa về giả thuyết của ông Nguyễn Gia Kiểng: ông không chuyên nghiên cứu về lịch sử. Nên ít nhiều điều này cũng khiến cho giả thuyết của ông thiếu tính thuyết phục.

( Có thể là có những người khác cũng đưa ra giả thuyết này nhưng tôi không được biết. )

*
* *

George Dutton ( đại học Hạ Uy Di, Hoa Kỳ ), viết luận án tiến sỹ về Tây Sơn. Tham khảo thiên kinh vạn quyển, có những người tác giả người Việt, mà có thể những người Việt Nam ở tuổi 30-40 chưa chắc đã biết… v.v…

George Dutton đã không bài bác con số hai trăm ngàn quân — vâng 200,000 — xâm lăng của Tôn Sĩ Nghị. Trích đoạn trang 48:

…Tôn Sĩ Nghị, the ambitious Qing governor for the southern Chinese provinces of Guangdong and Quangxi convinced him that the invasion would be a simple matter. In late October 1788, a Chinese army, numbering perhaps as many as two hundered thousand crossed into northern Đại Việt, entered Thăng Long without encountering any resistance, and placed the Lê ruler back on his throne.

…Tôn Sỹ Nghị, toàn quyền đầy tham vọng của Quảng Đông Quảng Tây đã thuyết phục vua Thanh cuộc xâm lăng là một chuyện dễ dàng. Vào khoảng cuối Tháng Mười 1788, một đạo quân xâm lăng của Tàu-Thanh, quân số có lẽ đến hai trăm ngàn quân, đã tiến chiếm biên cương phía Bắc của Đại Việt, vào Thăng Long mà không gặp một sức kháng cự nào, và đã đưa Lê Chiêu Thống lên lại ngôi vua.

( Trang 49, George Dutton cũng không bác bỏ sử tích Hoàng Đế Quang Trung gửi người thế mình sang triều Thanh. Và ông ta cũng viết, trong suốt khoảng thời gian sứ bộ Đại Việt ở triều Thanh, hai bên đã đối xử với nhau rất đàng hoàng. )

*
* *

Các cố đạo Tây Phương thời đó, đã diễn tả việc hưng binh phạt Mãn Thanh của Quang Trung Hoàng Đế bằng câu “Tận Xuất Vi Binh” — xem “Tận Xuất Vi Binh”: “Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”

— Vậy chúng ta thử hỏi, nếu chỉ có vài ngàn tên giặc Mãn, tại sao lại phải “tận xuất vi binh”?

04/02/2017

“Tận Xuất Vi Binh”: “Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”

Tem Vua Quang Trung
Tem Vua Quang Trung

“Tận xuất vi binh” hay “Vắt toàn lực để hưng binh”.

Đây là giải pháp mang tính chất tình hình của Hoàng Đế Quang Trung trong giai đoạn chuẩn bị đánh giặc Mãn Thanh xâm lăng.

Giải pháp rất này rất sắt máu và cũng rất bạo tàn: nam phụ lão ấu, người nào còn nhúch nhích được đều bị bắt để phục vụ cho chiến tranh chống Mãn.

Họ được huy động đi đấp đường, tải lương, cắt cỏ cho ngựa cho voi v.v… nói chung những công việc nặng nhọc và dĩ nhiên là không công.

…và dĩ nhiên là có tử vong…

Nhân chứng đương thời kết tội ông tàn bạo. Hậu sinh, có kẻ cũng kết tội ông tàn bạo, và đã phóng bút hàm hồ hơn là kết luận dân Việt Nam là dân tộc hiếu chiến!

Sử gia cũng chép, trong đạo quân phạt Mãn của Tây Sơn, có những người lính tuổi chỉ mới 12 – 13 ( mười hai mười ba ) — và họ đã kết tội ông vô nhân.

“Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh!” — đó là triết lý sinh tồn của Tổ Tiên dòng Lạc Việt đã để lại cho con cháu.

Cho nên sự khắc nghiệt nếu có phần bạo tàn của Tây Sơn trong “tận xuất vi binh” để phạt Mãn — xét cho cùng, cũng không bạo tàn hơn suy nghĩ của Tổ Tiên là mấy.

— RỢ MÃN MÀ CHIẾN ĐƯỢC VIỆT NAM, CHÚNG SẼ THA AI VÀ GIẾT AI?

Trước sau gì cũng bị có thể bị chết. Nếu chết để cho bà con dòng họ của mình có cơ may được sống thì cũng đáng chết lắm. Còn đứng yên chết chùm, thì thảm quá.

Theo cụ kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa, thì người trong hình là cụ Phạm Công Trị, một quan Tây Sơn, đã cải trang thành Quang Trung Hoàng Đế sang thăm vua Càn Long, Long cho người vẽ tranh tặng. Và hình của Quang Trung Hoàng Đế trong tờ 200 đồng của Việt Nam Cộng Hòa được phỏng theo bức tranh đó.
Theo cụ kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa, thì người trong hình là cụ Phạm Công Trị, một quan Tây Sơn, đã cải trang thành Quang Trung Hoàng Đế sang thăm vua Càn Long, Long cho người vẽ tranh tặng. Và hình của Quang Trung Hoàng Đế trong tờ 200 đồng của Việt Nam Cộng Hòa được phỏng theo bức tranh đó.

*
* *

Lịch sử Tây Sơn là lịch sử máu đổ xương rơi — dù là xương thịt ngoại xâm hay xương thịt của người Việt đối lập với Tây Sơn.

— Đó là lịch sử, chúng ta không thể cãi được.

Nhưng xét lại lịch sử, đó chính là “thế thì phải thế” như lời của viên tướng Tây Sơn toàn tài Ngô Thời Nhiệm. Biết làm sao được?

Nhưng với Hoàng Đế Quang Trung, bạo lực và chiến tranh chỉ là phương tiện giai đoạn. Thời bình ngắn ngủi của ông, những việc làm của ông cũng chứng minh được ông nghiêng về pháp trị.

Ông đã trọng dụng những người mà ông cho là có tài hơn ông — thí dụ điển hình nhất là trường hợp của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp. Hoàng Đế Quang Trung đã năm lần bảy lược mời ông ra giúp nước.

Hoàng Đế Quang Trung cũng đã chém đầu những đại thần của Triều Lê. Nhưng không phải bắt được là chém. Những vị đại thần này nhất định trung thành với nhà Lê. Thả các vị ra, là các vị chiêu quân mãi mã chống lại Tây Sơn. Đánh hoài, dân tình chịu sao nỗi.

— Điển hình cho trường hợp này là Đại Thần Nguyễn Đình Giản dưới triều Lê Chiêu Thống. Chiêu hàng hơn một năm, ông nhất định chọn cái chết. Chém ông rồi, người đến xem ai cũng đổ lệ, và ĐÃ ĐỐT NHAN KHẤN VÁI HUƠNG HỒN ÔNG TRƯỚC KHI RA VỀ.

Cho dân bài tỏ tình cảm công khai với kẻ “phản nghịch” nếu không phải tính nhân bản của Triều Tây Sơn thì là cái gì?

Dân tộc Việt Nam quả thật bất hạnh. Nếu Hoàng Đế Quang Trung đừng đoản mệnh, trị nước thêm vài chục năm nữa, chắc tình hình Việt Nam đã khác hẳn.

Ông là người phóng khoáng trong suy nghĩ, mang nặng tinh thần cải cách.

*
* *

Đánh cho để dài tóc,
Đánh cho để đen răng,
Đánh cho nó chích luân bất phản,
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn,
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ.

Tức là:

Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó ngựa xe tan tác
Đánh cho nó manh giáp chẳng còn
Đánh cho nó biết nước Nam anh hùng có chủ

Có kẻ tiến sỹ cho rằng, bài hịch này “Không thấy khí tượng của người Anh hùng” hay không phải là khẩu khí của bậc quân vương!

— Xem Chữ viết trong bài “Hịch ra trận” của Quang Trung tại gò Đống Đa: Không thấy khí tượng của người Anh hùng

“Hịch Tướng Sỹ” của Đức Hưng Đạo Vương viết cho các vương tử, vương tôn đang mơ ngủ của Nhà Trần tỉnh giấc. Họ là thành phần có học.

“Cáo Bình Ngô” của Cụ Ức Trai Nguyễn Trãi viết là để xiển dương cái khí chất “văn hiến chi bang” của người Đại Việt, nên dĩ nhiên đó là một cáo văn có một không hai.

Hoàng Đế Quang Trung chú trọng chữ Nôm, có lẽ tinh thần này thể hiện trong bài hịch của ông chăng? “Nam quốc sơn hà Nam Đế cư” của gần tám trăm ( 800 ) năm trước cũng là tinh thần “phải có độc lập mới giữ được những tập tục của mình”?

Binh sỹ Tây Sơn là những thành phần giang hồ tứ chiếng, nông dân v.v… nên có lẽ họ sẽ hiểu ngôn ngữ bình dân dễ dàng hơn: “đánh chết mẹ tụi nó hết!”

— Nên bài hịch của ông, ông viết cho binh sỹ của mình!

Thời nay, có mấy kẻ dám nói và dám hành động: “Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”?

Vậy nếu đó không phải là khẩu khí của bậc Vương thì là của ai?

28/01/2017